Ở
phần kết bài viết trên TBKTSG số ra ngày 25-10-2007, GS. Hoàng Tụy có
nói tới “sự sai lầm hệ thống” trong hai lĩnh vực giáo dục và khoa học
hiện nay của đất nước. Mục tiêu của bài sau đây là thử tiếp tục đi tìm
cội rễ của cái “sai lầm hệ thống” ấy trong lĩnh vực hoạt động khoa học,
xét dưới hai góc độ định chế và tư tưởng.
Nhìn
chung, cho đến nay hầu như ai cũng đồng ý rằng nền khoa học của Việt
Nam hiện nay quá mỏng manh và mờ nhạt. Năm 2006, ngân sách nhà nước đầu
tư cho khoa học mới chỉ đạt 0,43% tính trên tổng sản phẩm trong nước (số
liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ - KH&CN), trong khi tỷ lệ này ở
Trung Quốc là 1,3% vào năm 2005, còn ở Hàn Quốc là 2,64% và Nhật 3,45%
vào năm 2003. Điều đáng nói là mức chi cho nghiên cứu ngoài ngân sách
nhà nước (của các tổ chức và doanh nghiệp tư nhân) có lẽ chiếm tỷ lệ
chưa đáng kể bao nhiêu. Còn số người trực tiếp làm công tác nghiên cứu
khoa học cũng chỉ có trên dưới 40.000 người (khoảng một phần tư con số
này ở TPHCM), tức rất thấp, chỉ bằng khoảng 0,05/100 người dân, trong
khi con số này ở Hàn Quốc là 2,19 hay ở Mỹ 3,67 (năm 2003).
Nói
đến các nguyên nhân của tình trạng lạc hậu của nền khoa học, người ta
có thể nghĩ tới yếu tố kinh tế (mức đầu tư quá thấp chẳng hạn), yếu tố
trình độ hay phẩm chất của người nghiên cứu (mà nhiều người đã lên tiếng
báo động), hoặc yếu tố quản lý. Một cuộc thăm dò của Sở KH&CN TPHCM
cho biết có tới 98% trong số 233 cán bộ khoa học được hỏi đã trả lời
rằng cần đổi mới chính sách và cơ chế quản lý hoạt động khoa học (SGGP,
17-3-2006, tr. 9). Ngày 5-9-2005, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định
115 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức nghiên cứu
công lập. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những nguyên nhân ấy thì chúng tôi
cho rằng vẫn chưa đụng chạm tới những chiều sâu gốc rễ của vấn đề. Bài
này có ý định đề cập tới hoạt động nghiên cứu khoa học xét như là một
định chế xã hội, và xét như là một dạng hoạt động đặc thù của tư duy.
Nhà nước và khoa học
Cũng
tương tự như nhiều định chế xã hội khác (như giáo dục, y tế, văn hóa,
thể dục thể thao), định chế khoa học cũng không thoát khỏi thân phận nạn
nhân của hai căn bệnh: căn bệnh nhà nước hóa (hay hành chính hóa) xét
về mặt tổ chức, và căn bệnh chính trị hóa xét về mặt tư tưởng, vốn là
những di chứng của chế độ quản lý tập trung quan liêu xuất phát từ một
mô hình chủ nghĩa xã hội sùng bái nhà nước mà chúng tôi đã có dịp phân
tích (xem TBKTSG, 6-7-2006, tr. 14-15). Nguồn gốc của hai căn
bệnh này xuất phát từ một não trạng mang nặng tiềm thức phong kiến cho
rằng Nhà nước và những người lãnh đạo là “dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của
dân), do đó thuộc về một đẳng cấp cao hơn và đứng bên trên dân chúng. Hệ
quả gần như tất yếu của não trạng này là thái độ độc quyền chân lý,
không chấp nhận những ai nói khác với mình, và cho rằng mình có quyền
nghĩ thay và quyết định thay cho người dân. Xét trong bối cảnh này, có
thể nói mà không sợ quá đáng rằng khoa học thực ra cũng buộc phải coi
Nhà nước nếu không là “phụ mẫu” thì cũng là “bảo mẫu” của mình!
Hiện
nay, thay vì chỉ cần xác định một số hướng nghiên cứu ưu tiên như các
nước khác vẫn làm, thì chính Nhà nước lại giành quyền xác định luôn đề
tài. Hàng năm, Bộ KH&CN công bố danh sách các đề tài khoa học cấp
nhà nước sẽ được ngân sách cấp kinh phí (năm 2006 có 95 đề tài). GS.
Hoàng Tụy bình luận về chuyện này như sau: “Không nước nào thực hiện
quản lý bằng cách cơ quan trung ương ban hành danh mục các đề tài cụ thể
cần nghiên cứu trong từng ngành KH&CN rồi chọn người giao nhiệm vụ
và cấp kinh phí thực hiện qua cơ chế đấu thầu hoặc tuyển trực tiếp”
(TBKTSG, 18-1-2007, tr. 15). Ở cấp địa phương, tình hình cũng y hệt như
thế, có khác chăng là danh mục đề tài do các sở KH&CN xác định và
ban hành.
Theo
PGS. Trần Đình Thiên, nền khoa học của Việt Nam hiện nay vẫn là “một
nền khoa học bao cấp, vẫn tồn tại xin-cho, bộ chủ quản”, và Nhà nước vẫn
chưa thực sự đặt niềm tin vào các nhà khoa học. Tình trạng tập trung
quan liêu này trong lĩnh vực khoa học khiến cho có người như GS.
Ngô Việt Trung đề nghị thậm chí cần từ bỏ khái niệm “quản lý khoa học”,
vì “hiện nay ở Việt Nam có tình trạng nhiều cán bộ không phải là nhà
khoa học lại đi hoạch định chính sách và điều phối các hoạt động khoa
học” (xem TBKTSG, 18-1-2007, tr. 14).
Chế
độ quan liêu và độc quyền trong nghiên cứu khoa học dẫn đến những hậu
quả tệ hại đáng xấu hổ, chẳng hạn như, theo GS. Hoàng Tụy, “hiện tượng
chạy dự án nghiên cứu để tăng thu nhập cũng xuất phát từ chế độ đãi ngộ
cho giới khoa học hiện quá thấp” (Pháp luật TPHCM, 26-9-2005, tr. 3).
Hay một hậu quả khác là “nạn cai đầu dài”, theo lời GS. Văn Tạo: “Cần
tránh nạn cai đầu dài trong quản lý khoa học, tránh việc chỉ giao chủ
trì đề tài khoa học cho những người có cương vị chính quyền, có chức
sắc, dầu họ không phải là chuyên gia đầu ngành” (Khoa học & Phát
triển, 17-7-2003, tr. 3). Chính cơ chế làm việc chịu sự chi phối nặng nề
của quyền lực và của óc quyền lực làm cho “các giáo sư-nhà khoa học dễ
đánh mất lòng trung thực, nhiều lúc muốn có việc sẽ phải nói dối, đôi
lúc còn đượm chút mafia”, theo lời GS. Lê Huy Bá (Tuổi trẻ, 13-7-2005,
tr. 1).
Trở
lại với mối quan hệ giữa định chế nhà nước với định chế khoa học, chúng
tôi cho rằng những người lãnh đạo nhà nước đã không phân biệt chức năng
của từng định chế, từ đó vô hình trung lẫn lộn và đồng hóa hai loại
định chế khác nhau hoàn toàn này. Vì thế mới dẫn đến tình trạng “nhà
nước hóa” hay “hành chính hóa” các tổ chức khoa học như đã nói trên. Ở
đây, cần nói rõ: Nhà nước không có chức năng nghiên cứu hay làm khoa
học, kể cả bộ hay các sở KH&CN, vì Nhà nước là một định chế chính
trị. Chính các viện nghiên cứu hay các trường đại học mới có chức năng
này, vì đây là những tổ chức thuộc về định chế văn hóa và định chế giáo
dục của một hệ thống xã hội. Chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học
không thể và không bao giờ là Nhà nước (mặc dù hoàn toàn có thể là của
một viện nghiên cứu của Nhà nước; nhưng một viện nghiên cứu của Nhà nước
vẫn không phải là Nhà nước), mà luôn luôn phải là nhà nghiên cứu. Nhà
nước là người có thể đặt hàng một số đề tài nghiên cứu nào đó, hay thậm
chí định ra một số hướng nghiên cứu ưu tiên kêu gọi các nhà khoa học
tham gia, cung ứng tài chính cho các tổ chức nghiên cứu, nhưng Nhà nước
không thể tự mình tiến hành hoạt động nghiên cứu, mà cũng không có đủ
thẩm quyền để thẩm định các đề tài nghiên cứu, đơn giản là vì Nhà nước
không phải là một tổ chức nghiên cứu, mà là một tổ chức chính trị mang
những chức năng và nhiệm vụ khác hẳn. Lâu nay, chúng ta có thể thấy một
số hiện tượng bộc lộ sự ngộ nhận không hề nhỏ này, chẳng hạn khi Bộ
KH&CN trực tiếp giao đề tài cho nhà nghiên cứu, rồi cuối cùng xét
nghiệm thu đề tài, hay khi Bộ Giáo dục và Đào tạo giành lấy quyền ra đề
thi tuyển sinh hay cấp văn bằng tiến sĩ trong khi lý ra những việc này
hoàn toàn thuộc thẩm quyền và nhiệm vụ của các trường đại học. Đây không
chỉ là vấn đề không tin cậy vào các tổ chức cấp dưới, mà nghiêm trọng
hơn là vấn đề lẫn lộn chức năng, hoặc nói như người Nam bộ là “đá lộn
sân”, cũng giống y như trước đây lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước
về kinh tế với chức năng sản xuất-kinh doanh.
Tính độc lập của người làm khoa học và quyền tự do tư tưởng
Ai
cũng biết một trong những điều kiện cốt tử của một nhà nghiên cứu là
khả năng suy nghĩ độc lập và óc hoài nghi khoa học cũng như óc phê phán.
Và để bảo đảm được điều này thì không gì khác hơn là phải tuyệt đối tôn
trọng quyền tự do tư tưởng. Óc phê phán và môi trường thảo luận không
làm gia tăng vốn kiến thức, nhưng lại là điều kiện tối cần thiết để kiểm
nghiệm tri thức và kích thích óc sáng tạo. Và như nhà triết học Anh J.
S. Mill từng viết, “cái tai họa khác thường của việc cấm đoán phát biểu
một ý kiến chính là sự đánh cắp đối với loài người... [điều này] gây
thiệt hại cho người bất đồng với ý kiến đó nhiều hơn là cho chính người
có ý kiến đó” (On Liberty, 1859, chương 2) (xem thêm TBKTSG, 23-2-2006, tr. 16). |
|
Trên
bình diện tư tưởng, nhiều ngành khoa học, nhất là các ngành khoa học xã
hội và nhân văn, nhiều năm nay đã bị nhiễm căn bệnh “chính trị hóa” một
cách nặng nề. Do chế độ “bao cấp” về tư tưởng, nên nhà nghiên cứu gần
như bị trói chặt trong cái vòng kim cô của những điều buộc phải chấp
nhận như chân lý cũng như của những điều cấm kỵ mang tính giáo điều, hệ
quả là buộc phải tự giới hạn lao động của mình vào công việc minh họa
đến mức có người phải tự trào là “ăn theo, nói leo” (Khoa học & Phát
triển, 17-7-2003, tr. 3). Mọi nội dung nghiên cứu, mọi mục tiêu nghiên
cứu đều phải quy về chính trị, phải được xem xét và phán đoán dưới quan
điểm chính trị. Gần đây có người còn có sáng kiến hết sức kỳ quặc là
định đưa cả việc chống tham nhũng vào trong nội dung giảng dạy ở các nhà
trường! Ngay cả môn triết học cũng không được giảng dạy và trình bày
như một bộ môn khoa học, mà thường được diễn giải một cách máy móc theo
quan điểm gọi là “chính trị” (xem thêm Tia sáng, 8-2006, tr. 18-19).
Tình hình này dẫn đến chỗ làm tha hóa (hiểu theo nghĩa triết học, tức là
không còn là mình nữa), hay nếu dùng một từ tượng hình hơn, làm “phân
thân” người nghiên cứu - trong bụng nghĩ một đàng nhưng nói ra hay viết
ra một nẻo. Sự tha hóa này không chỉ gây khổ sở cho nhà nghiên cứu, mà
quan trọng hơn là còn gây thiệt thòi cho cả xã hội, vì khoa học đã không
được “trọng dụng” như những lời tuyên bố trên diễn đàn. Điều này xảy ra
không chỉ đối với giới khoa học xã hội, mà kể cả giới khoa học tự nhiên
và công nghệ. Và trong thực tế, đây là một sự lãng phí chất xám không
chỉ của giới nghiên cứu mà của cả xã hội một cách nghiêm trọng.
Nếu
nhà khoa học không tôn trọng tính khách quan, không mang tính độc lập
và không dám phản biện, thì nói như GS. Lê Ngọc Trà, sẽ “không ngăn cản
được những quyết định thiếu sáng suốt có ảnh hưởng đến lợi ích chung”
(Tia sáng, 16-9-2006). Tuy nhiên, trong thực tế, có ngăn cản được hay
không lại là chuyện khác. Trả lời cho câu chất vấn của một nhà báo rằng
“nhà khoa học ở đâu?” sau khi xảy ra những hậu quả xấu của việc xây đập
và cống ở sông Ba Lai nhằm “ngọt hóa” một vùng đất Bến Tre, ông Trần Đức
Khâm, nguyên Phó viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi, nói rằng ông đã
từng lên tiếng cảnh báo về những điều bất hợp lý về mặt kinh tế-kỹ thuật
cũng như những tác động xấu về mặt môi trường, nhưng không hề được lắng
nghe và xem xét ý kiến (TBKTSG, 27-1-2005, tr. 4). Có lẽ cũng không khó
để tìm được những thí dụ tương tự liên quan tới những dự án lớn của
quốc gia như dự án xây các nhà máy xi măng lò đứng, các nhà máy đường,
dự án xây dựng các cảng biển ở các tỉnh liền kề nhau hay dự án đắp đê
bao ngăn “lũ” ở đồng bằng sông Cửu Long.
Một
trường hợp cũng khá điển hình là mới đây, Chủ tịch UBND TPHCM đã yêu
cầu các sở có liên quan tìm lại bộ bản đồ địa chất thủy văn và địa chất
công trình vốn đã được các nhà khoa học thiết lập từ năm 1982 nhưng đến
nay đã bị... thất lạc, nhằm phục vụ cho việc quy hoạch và xây dựng của
thành phố (Người lao động, 7-11, 8-11 và 10-11-2007). Cốt nền phục vụ
cho công tác xây dựng cơ sở hạ tầng của một thành phố lớn như TPHCM vẫn
không được xác định trong mấy chục năm liền. Đấy chỉ là một vài trong vô
vàn thí dụ cho thấy nhiều cơ quan nhà nước không những không quan tâm
tới lĩnh vực nghiên cứu khoa học, mà còn không bận tâm ngay cả tới công
việc quản lý của chính mình một cách khoa học!
Tính
độc lập tư duy của nhà nghiên cứu trong thực tế cần được hiểu là trước
hết độc lập khỏi mọi áp lực. Cũng không thừa nếu nói thêm rằng gần đây
có một xu hướng kỳ lạ là nhiều người thường có quan điểm duy kinh tế thô
thiển khi bàn đến hoạt động nghiên cứu khoa học, làm như thể khoa học
lúc nào cũng phải đẻ ra tiền ngay và cân đong đo đếm được, mà không phân
biệt giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng hay nghiên cứu
triển khai, và cũng không ý thức rằng ngay nghiên cứu triển khai cũng
không phải lúc nào cũng dễ dàng đi đến thành công. Đã có lúc chính Nhà
nước cũng ban hành quy định phấn đấu ít nhất 90% đề tài nghiên cứu được
ứng dụng trong vòng sáu tháng sau khi nghiệm thu (SGGP, 13-6-2004, tr.
2). Và chính Bộ KH&CN cũng đề ra cơ chế “đấu thầu” đề tài nghiên cứu
một cách máy móc, không khác gì một dự án xây dựng cầu đường!
Hoạt
động nghiên cứu khoa học có những quy tắc riêng của nó mà nhà nghiên
cứu nào cũng phải tôn trọng và tuân thủ. Và xét cho cùng, như lời GS. Lê
Ngọc Trà, “sẽ không có một lập trình nào cho tương lai của khoa học
ngoài sự lập trình của chính nó” (TBKTSG, 18-1-2007, tr. 14). Và nếu nhà
khoa học có bướng bỉnh làm việc theo những quy tắc ấy, thì chắc hẳn
không phải chỉ vì lợi ích của cá nhân người này hay lợi ích của bản thân
nền khoa học, mà suy cho cùng là vì lợi ích của cả xã hội.
Nếu
khoa học là hoạt động tìm kiếm tri thức và sản xuất ra tri thức, thì
đồng thời nó cũng có nhiệm vụ giúp cho xã hội có điều kiện tự nhìn lại
mình, tự ý thức về mình, hay nói cách khác, giúp cho xã hội con người
luôn luôn phản tỉnh. Công cuộc đổi mới đã có thành tựu là khôi phục được
vai trò tiên phong của tầng lớp doanh nhân, nay đã đến lúc cần khôi
phục và xây dựng lại một tầng lớp trí thức theo đúng nghĩa của từ này.
Bởi lẽ, sức mạnh của một đất nước không thể chỉ dựa vào tiềm lực sản
xuất ra của cải vật chất, mà còn là và trước hết là phải dựa trên tiềm
lực của trí tuệ. Nhưng để làm được điều này, ngoài những thay đổi cần
thiết về mặt định chế như đã nói trên, cần tôn trọng và đảm bảo quyền tự
do tư tưởng trong nghiên cứu. Không có con đường nào khác.
Nguồn: Thời Báo kinh tế Sài Gòn, Số : 47-2007 (883) - Ngày : 15-11-2007 |
No comments:
Post a Comment