Nguyễn Khánh Trung
«Après le pain, l’éducation est le premier besoin d’un peuple – Sau lương thực, giáo dục là nhu cầu thứ nhất của một dân tộc » (Danton Georges Jacque, 1759 – 1794).
Danton,
 nhà triết học người Pháp đã phát biểu ý tưởng trên từ thế kỷ 18, nhưng 
đến nay vẫn luôn có tính thời sự, đặc biệt rất có ý nghĩa trong hoàn 
cảnh nước ta hiện nay. Xét trên tổng thể, giáo dục là thiết chế cung cấp
 cho xã hội vốn nhân sự, mà yếu tố con người và tri thức luôn đóng vai 
trò quyết định sự hưng thịnh của một quốc gia, nhất là trong thời kinh 
tế tri thức ngày nay. Trên bình diện cá nhân, giáo dục là « đường đi » 
đưa cá thể hội nhập vào xã hội, cũng như giúp cá thể thăng tiến trên 
đường đời…
Ý thức được tầm 
quan trọng của giáo dục, từ khi Ðổi mới, Ðảng và Nhà nước đã xem giáo 
dục là “quốc sách hàng đầu”, ngân sách dành cho giáo dục tăng lên, hệ 
thống các trường lớp, đặc biệt là trường đại học được mở rộng, số lượng 
học sinh, sinh viên tăng nhanh vv. Phải nói rằng chưa bao giờ giáo dục 
trở thành đề tài thu hút mạnh mẽ sự quan tấm của tất cả xã hội như hiện 
nay. Các vấn đề về giáo dục trở thành những đề tài nóng bỏng, được tranh
 luận hàng ngày trên các phương tiện truyền thông cũng như trong các hội
 nghị, hội thảo. Nhiều chuyên gia, nhà giáo cho rằng giáo dục của chúng 
ta hiện nay đang « khủng hoảng"[2].
 Rất nhiều ý kiến đã mổ xẻ các vấn đề của giáo dục và đề nghị nhiều 
phương án khắc phục cũng như đưa ra nhiều kế sách phát triển, vv. Thế 
nhưng, nhìn chung cho đến nay, các căn bệnh của giáo dục không những 
không thuyên giảm mà có chiều hướng ngày càng trầm trọng hơn làm cho cả 
xã hội bức xúc lo lắng. Chúng ta có vẽ đang bí lối trong việc đi tìm cho
 giáo dục một hướng đi thích hợp.
Trong
 bối cảnh như vậy, chúng tôi cô gắng giới thiệu lý thuyết “xã hội học 
curriculum” vì tìm thấy nơi lý thuyết này những gợi ý có thể giải thích 
một cách hợp lý căn cơ những căn bệnh của nền giáo dục Việt Nam hiện nay
 nói chung và giảng dạy đại học nói riêng. Cố gắng này cũng góp phần nhỏ
 bé của chúng tôi vào sự phát triển các lý thuyết chuyên ngành của xã 
hội học giáo dục nước nhà, vốn đang rất thiếu và yếu.
1. Bối cảnh ra đời và sự phát triển của xã hộ học curriculum
Kế thừa từ các “lý thuyết tái tạo”[3]
 (théorie de reproduction) trong xã hội học giáo dục, các nhà xã hội học
 Anh đã sáng lập một trường phái lý thuyết “mới” mang tên “xã hội học 
curriculum” vào những năm 1960 – 1970. Trường phái này định
 hướng lại cách đặt vấn đề nghiên cứu của xã hội học giáo dục truyền 
thống trong bối cảnh xuất hiện nhiếu biến đổi xã hội trên mọi lĩnh vực 
từ kinh tế đến chính trị ở các nướ Anh, Pháp nói riêng và trên tòan thế 
giơi nói chung với những đặc trưng: khủng hoảng văn hóa xảy ra có tính 
toàn cầu; đời sống chính trị bị đảo lộn bởi tác động của các phong trào 
tranh đấu; sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật; sự tăng trưởng 
nhanh chóng của các nền kinh tế các nước phát triển. Các biến đổi này đã
 tác động sâu sắc lên giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học. Ðiều này
 xảy ra bởi nhiều lý do: trước tiên về mặt kinh tế, để duy trì tốc độ 
tăng trưởng, xã hội nói chung và các công ty nói riêng có nhu cầu rất 
lớn về nhân sự có chất lượng và một đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa
 học có trình độ cao. Nhà trường, đặc biệt là các trường đào tạo nghề và
 đại học được chờ đợi đáp ứng nhu cầu này. Về mặt chính trị, nhiều đạo 
luật về giáo dục được ban hành nhằm thúc đẩy cải cách hệ thống giáo dục.
 Về giảng dạy đại học nói riêng, trong thời kỳ này, xuất hiện nhiều 
phong trào của sinh viên và giảng viên đòi quyền tham gia vào việc xây 
dựng các chương trình và nội dung đào tạo, cũng như vào việc quản lý 
hành chính của trường đại học. Ðể đáp ứng những đòi hỏi này, trường đại 
học đã tiến hành cải cách trên nhiều lĩnh vực trong giảng dạy như nội 
dung chương trình, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá kết quả 
học tập của sinh viên, cũng như các phương thức về quản lý hành chính và
 các chính sách đào tạo. Song song đó, các chính quyền của các nước phát
 triển buộc phải xây dựng các lọai trường, thiết lập các dịnh vụ, các 
hội đoàn mới nhằm đáp ứng nhu cầu của công cuộc đổi mới đặt ra., vv. 
Những biến chuyển nói trên làm nảy sinh các vấn đề liên quan đến nội 
dụng và chương trình giảng dạy của trường học, thu hút sự chú ý của các 
chuyên gia, các nhà nghiên cứu. Trong bối cảnh như vậy, xã hội học 
curriculum đã ra đời.
Những ý tưởng nền 
tảng của xã hội học curriculum bắt nguồn từ các nhà xã hội học của Viện 
Giáo dục thuộc Ðại học Luân Ðôn, cụ thể ở đây là từ Basie Bernstein, đặc
 biệt là từ Michael Young. Trong hội thảo thường niên do Hiệp hội Xã hội
 học Anh tổ chức năm 1970 tại Durham, nhóm ba nhà xã hội Anh và Pháp là 
Basie Berstein, Michael Young và Pierre Bourdieu đã soạn thảo và cho 
xuất bản công trình mang tên Knowledge and Control (Kiến thức và Kiểm sóat), dưới sự hướng dẫn của Michael Young. Công trình này đã đặt vấn đề nền tảng cho hướng nghiên cứu của “ Tân xã hội học giáo dục”, hay còn gọi là “xã hội học curriculum”. Ngoài công trình then chốt này, người ta còn thấy một vài xuất bản có nội dung từ giáo trình “School and Society” (Nhà trường và Xã hội)
 của Ðại học Mở - Anh. Các ý tưởng xã hội học “mới” trong các tác phẩm 
này thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các nhà xã hội học các nước nói 
tiếng Anh và đặc biệt các nhà xã hội học Anh.
Tại
 các nước nói tiếng Pháp, xã hội học curriculum không được biết đến một 
cách rộng rãi, tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của trường phái này đã 
không còn xa lạ với các nhà xã hội học Pháp. Ví dụ các công trình của 
Pierre Bourdieu và J.C Passeron với tựa đề “La Reproduction” (Tái tạo),
 xuất bản năm 1970. Các tác giả này nhấn mạnh đến phương thức mà nhà 
trường áp đặt nền văn hóa của giai cấp thống trị lên người học; hay công
 trình của C. Baudelot và R. Establet có tựa “L’ecole capitaliste en France” (Nhà trường tư bản chủ nghĩa tại Pháp),
 xuất bản năm 1971, các nhà xã hội học này đã phân tích nội dung của các
 sách giáo khoa cấp tiểu học bằng cách đặt chúng trong sự liên hệ với xã
 hội nhằm tìm hiểu những ảnh hưởng chính trị, kinh tế và văn hóa trên 
nội dung chương trình giảng dạy. Với những nghiên cứu kiểu như vậy, các 
nhà xã hội Pháp đã góp phần làm phong phú các lý luận của xã hội học 
curriculum.
Xã hội học curriculum tiếp tục 
phát triển vào những năm 1980 cho đến ngày nay tại các nước Châu Âu và 
Mỹ. Rất nhiều công trình nghiên cứu về nội dung chương trình giảng dạy 
đã góp phần vào sự phát triển của trường phái xã hội học này. Ví như 
công trình của Barry Cooper (1983), nhà xã hội học này đã phân tích 
những lý do của sự biến chuyển môn toán ở cấp trung học tại Anh; Hay như
 trong nghiên cứu thực nghiệm trên năm trường tiểu học tại Mỹ, Jean 
Anyon đã tìm ra sự khác biệt quan trọng trong cách thức giảng dạy và 
đánh giá kết quả học tập học sinh của các giáo viên. Tác giả này cho 
rằng sự khác biệt quan trọng này là biểu hiện của phần curriculum ngầm 
(caché) trong giảng dạy. Tại Pháp những công trình như của J.C. Forquin 
(1989), hay nghiên cứu thực nghiệm của V. Isambert – Jamati (1990) được 
trích dẫn nhiều nhất trong những năm 1990. 
Trong bài báo của mình đăng trên La Revue francaise de Pédagogie,
 Trotier (1987) đã chia quá trình phát triển của xã hội học curriculum 
thành hai thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất bắt đầu từ năm 1967 đến năm 1976; 
thời kỳ thứ hai từ năm 1976 đến nay. Trong thời kỳ thứ nhất, với lối tiếp
 cận xã hội học mang tính vi mô, các nhà xã hội học tập trung trên các 
chủ đề như: a) các chiều kích xã hội trong việc lựa chọn các kiến thức 
giảng dạy; b) Quá trình tương tác giữa các tác nhân, các bên của hệ 
thống giáo dục trong quá trình tham gia lựa chọn các kiến thức giảng 
dạy; c) Các hình thức khảo hạch của các nhóm tác nhân thực hiện nhằm áp 
đặt những khuynh hướng và lợi ích của mỗi nhóm. Về mặt phương pháp 
nghiên cứu, các nhà xã hội học trong thời kỳ này đã ưu tiên lối tiếp cận
 của nhân chủng học trong nghiên cứu các hiện tượng học đường với các kỹ
 thuật quan sát tham gia và phỏng vấn bán cơ cấu (xem Anne Van Haecht, 
1998, tr. 72 - 73). Trong giai đoạn thứ hai, các nhà xã hội học quay lại
 với lý thuyết “đấu tranh” (résistante) dưới sự ảnh hưởng của các nhà xã
 hội học chủ nghĩa mâu thuẫn như Bowles và Gintis, P. Bourdieu và các 
nhà xã hội học tân marxistes. Tuy nhiên, với lối tiếp cận nhân chủng 
học, các nhà xã hội học này đã làm mềm bớt những khảng định về vai trò 
“tái tạo” của nhà trường của các nhà xã hội học giáo dục thuộc các lý 
thuyết tái tạo đi trước bằng cách chỉ ra rằng những gì đang xảy ra trong
 nhà trường không nhất thiết cứ phải phục vụ cho những lợi ích của giai 
cấp thống trị. Các nhà xã hội học này xem học sinh như những vai diễn 
chủ động trong trường học. Sự thống trị của giai cấp cầm quyền thể hiện 
trong nhà trường không mang tính tuyệt đối. Ngoài việc tìm những dấu ấn 
chính trị - xã hội đến từ phía nhóm cầm quyền đang ảnh hưởng trên các 
khâu trong việc giảng dạy, các nhà xã hội học này cũng tìm ra những yếu 
tố đến từ phía người học đang ảnh hưởng lên hệ thống đào tạo, cũng như 
can dự và thúc đẩy nhà trường cải cách.
2. Vài nét về lý thuyết và phương pháp luận
Theo
 J.C. Forquin (1990), xã hội học curriculum đã chịu ảnh hưởng rất nhiều 
từ các nhà xã hội học Mỹ theo chủ nghĩa tương tác biểu tượng và hiện 
tượng luận được sáng lập bởi Alfred Schutz về mặt lý thuyết cũng như 
phương pháp nghiên cứu.
Ngược lại với các 
lý thuyết gia thuộc trường phái tái tạo luôn cho rằng, trong nhà trường,
 người học được hiểu như là sản phẩm của hệ thống giáo dục. Các nhà xã 
hội học curriculum xem họ là những tác nhân chủ động trong sự tương tác 
với các tác nhân khác. Giáo dục luôn bị áp đặt nhưng cũng luôn trong tư 
thế “mở”. Họ tin rằng người học không hoàn toàn chịu ảnh hưởng từ thiết 
chế giáo dục, ngược lại, họ có thể chủ động thực hiện những hành động và
 phối hợp với các tác nhân khác nhằm gây ảnh hưởng và thúc 
đẩy thiết chế giáo dục thay đổi. Trên nền tảng lý luận này, các nhà sáng
 lập xã hội học curriculum đã đề nghị những khuynh hướng nghiên cứu mới.
 Cách đặt vấn đề mới được phát triển trong Knowled and Control 
mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên được ví như là một “cuộc cách mạng” 
trong xã hội học học giáo dục, tựa như cuộc cách mạng trong khoa học tự 
nhiên của Galilê. Các nhà xã hội học curriculum thường quan tâm đến 
những gì xảy ra trong nhà trường như quá trình xây dựng và lựa chọn các 
chương trình, nội dung giảng dạy, những tương tác qua lại hàng ngày giữa
 các tác nhân trong nhà trường như giữa sinh viên, giảng viên, đại diện 
chính quyền, đại diện các khuynh hướng chính trị, vv. Những đề tài 
nghiên cứu đặt ra mang tính vi mô, ngược lại với các nhà xã hội học giáo
 dục truyền thống vốn thường tìm triển khai những đề tài vĩ mô như phân 
tích hệ thống giáo dục trong sự liên hệ với các thiết chế khác nhằm sản 
sinh ra những đại lý thuyết có thể giải thích toàn bộ xã hội. Về mặt 
phương pháp luận, các nhà xã hội học này thường sử dụng phương pháp định
 lượng, với những cuộc điều tra thống kê quy mô. 
Các
 nhà xã hội học curriculum cho rằng các lý thuyết truyền thống đã không 
được đầu tư một cách đầy đủ, quá lệ thuộc vào những ý tưởng có sẵn và 
cách đặt vấn đề vốn đã bị áp đặt bởi chính thiết chế giáo dục. Các nhà 
nghiên cứu của lý thuyết này “không biết” phân tích “tính xã hội” trong 
khi đề cập đến các hiện tượng học đường như những khó khăn, hay sự thất 
bại trong học tập của học sinh. Với cách tiếp cận vi mô hơn, các nhà xã 
hội học curriculum đã đi tìm những nguyên nhân của các hiện tượng này 
bằng cách mổ xẻ các quy trình đào tạo của nhà trường, quá trình học tập 
của học sinh cũng như tìm phân tích những giả định, những yếu tố liên 
quan đến văn hóa, chính trị hay trí tuệ của học sinh.
Mặt
 khác, do chịu ảnh hưởng từ lý thuyết tương tác và hiện tượng luận, các 
nhà xã hội học curriculum nhấn mạnh đến tính “chủ quan” (subjectif) 
trong sự cấu thành thực tại xã hội. Ngược lại với các tư tưởng của các 
nhà lý thuyết mâu thuẫn, các nhà xã hội học này tin rằng thế giới của 
con người là sản phẩm của chính con người chúng ta. Đó chỉ là một “tập 
hợp các ý nghĩa” (ensemble de significations) mà chúng ta đã tạo ra 
thông qua quá trình tương tác qua lại hàng ngày. Từ căn bản này, các nhà
 xã hội học curriculum đã tìm cách mổ xẻ các nội dung chương trình giảng
 dạy trong nhà trường thông qua quá trình tương tác của các tác nhân 
trong giáo dục như của giáo viên và học sinh nhằm tìm hiểu những đóng 
góp và những ảnh hưởng của các tác nhân này vào quá trình thiết lập các 
chương trình, quá trình lựa chọn các kiến thức, phương thức đánh giá kết
 quả học tập của người học áp dụng trong nhà trường, cũng như vai trò 
của họ trong các cải cách, trong sự biến chuyển của nội dung và chương 
trình giảng dạy. Cũng như xã hội nói chung, thiết chế giáo dục đã và 
đang được hình thành, nó là sản phẩm của con người, cụ thể là của các 
tác nhân đang tham gia vào việc giảng dạy và học tập trong từng trường, 
từng lớp học. Từ đó, muốn hiểu rõ về bản chất của các vấn đề trong giáo 
dục, cần phải phân tích quá trình hình thành của chúng, cũng như mổ xẻ 
các khuynh hướng, động cơ của các tác nhân, các bên có liên quan, chứ 
không phải chỉ quan tâm đến một bên nào đó. Tóm lại, các nhà xã hội học 
curriculum hoàn tòan khác hẳn quan niệm của các nhà nhà xã hội học giáo 
dục truyền thống về mặt lý thuyết cũng như phương pháp luận.
Như
 vậy hiện nay, ngay cả các lý thuyết gia thuộc trường phái “tranh đấu” 
cũng không còn nghĩ rằng nhà trường hoàn tòan nằm trong tay của giai cấp
 thống trị hay nhà trường chỉ là công cụ tái tạo sự thống trị của họ. 
Ngược lại, họ xem người học và giáo viên trong trường học như những vai 
diễn chủ động, có thể gây ảnh hưởng trên nhà trường cũng như thúc đẩy 
nhà trường thay đổi. Khuynh hướng nghiên cứu này đang trở nên thịnh hành
 hiện nay, các nhà xã hội học đang quay lại với lối tiếp cận vi mô có 
nguồn gốc từ các nhà lý thuyết thuộc trường phái tương tác luận vốn đã 
bị lảng quên trong một thời gian dài. Các nhà nghiên cứu hiện nay không 
còn tham vọng thực hiện những công trình lớn, bao trùm cả 
hệ thống giáo dục nhằm sản sinh ra những đại lý thuyết như các nhà xã 
hội học theo chủ nghĩa cơ cấu - chức năng và mâu thuẫn cổ điển thường 
làm, nhưng họ chỉ tập trung quan sát những gì đang xảy ra một cách 
thường nhật trong từng trương, từng lớp học.
Khái niệm “curriculum”
Như
 đã trình bày ở trên, chúng tôi không thể tìm ra một thuật ngữ tiếng 
Việt tương đương với khái niệm “curriculum” mang ý nghĩa đầy đủ của khái
 niệm này trong cách hiểu của các nhà xã hội học Anh - Mỹ. Ngay cả các 
nhà xã hộc các nước nói tiêng Anh, chúng tôi cũng chẳng tìm ra một định 
nghĩa cố định, hoàn chỉnh về khái niệm này. Các nhà xã hội học thường 
diễn giải khái niệm curriculum một cách rộng hay hẹp tùy vào 
quy mô và mục đích nghiên cứu của từng đề tài. Trước khi lý thuyết 
curriculum chào đời chính thức, người ta thường định nghĩa khái niệm này
 một cách hẹp và trừu tượng. Ví dụ như John Kerr (1968) đã giải thích 
thuật ngữ “curriculum” như là tất cả những gì liên quan đến việc “học 
tập, được tổ chức và điều khiển bởi nhà trường. Việc học tập này diễn ra
 trong khuôn khổ một nhóm hay chỉ là của một cá nhân trong hay ngoài 
trường học”. Cũng tương tự như vậy, Paul Hirst (1968) đã định nghĩa khái
 niệm này như một chương trình hoạt động của giáo viên và học sinh nhằm 
đạt được một số mục tiêu giáo dục nào đó đã đặt ra (J.C. Forquin, 1989, 
tr. 23). Như vậy thuật ngữ curriculum ám chỉ nội dung, chương trình 
giảng dạy, những phương thức thực hành sư phạm vv, tất cả những gì được 
tổ chức và điều khiển bởi nhà trường nhằm đạt đến những mục tiêu giáo 
dục do chính nhà trường đặt ra. Cũng như các nhà lý thuyết theo chủ 
nghĩa “tái tạo”, các nhà xã hội học curriculum vào thời này luôn nhấn 
mạnh đến sự quan trọng của vai trò áp đặt văn hóa và ý thức hệ của giai 
cấp cai trị lên học sinh thông qua chương trình nội dung và các hành 
động sư phạm được áp dụng trong trường học. Những định nghĩa như vậy về 
thuật ngữ curriculum tập trung trên phương diện “chính danh” (officiel) 
hơn là phương diện “thực tiễn” (réel), hay nói cách khác, tập trung trên
 những gì mà nhà trường đang thực hiện một cách chính thức, hợp pháp, 
hơn là những gì đang xảy ra thực sự trong nhà trường, nhưng không được 
nêu rõ trên giấy trắng mực đen trong quy trình giảng dạy.
Basil Bernsteins (1975), một trong những sáng lập viên của xã hội học curriculum đã định nghĩa thuật ngữ này trong On the curriculum một
 cách chi tiết hơn bằng cách khởi đi từ hình thức của các môn học. Nhà 
xã hội học này chia curriculum thành hai lọai: Nếu nội dung các môn học 
hòan tòan khác nhau, Berntein gọi những môn học này là “lọai hình đóng”.
 Loại hình này tồn tại phổ biến tại các nước Châu Âu, trong đó nội dung 
của môn học này hoàn toàn tách bạch với nội dung của các môn học khác. 
Từ đó ông cho rằng, với loại hình đóng này, việc biên soạn nội dung 
chương trình giảng dạy cũng như việc đánh giá kết quả học tập đều nằm 
trong tay của các giáo viên. Những người này hoàn toàn có tự do hành 
động, họ có thể làm những gì họ muốn. Nghĩa là các giáo viên có thể gây 
ảnh hưởng của mình trên học sinh thông qua quá trình biên soạn nội dung 
cũng như quá trình giảng dạy các môn học này. Ngược lại với lọai hình 
các môn học đóng này là lọai hình mở, các nội dung các môn học nối kết 
với nhau trong một liên hệ mở. Làn ranh giữa các môn học không rõ rang, 
những môn học này thường được chú ý đến bề rộng hơn là chiều sâu của nội
 dung giảng dạy. Với những môn học này, người ta thường đề cao những 
điểm chung trong việc biên soạn chương trình nội dung giảng dạy, hay áp 
dụng chung các cách thức đánh giá kết quả học tập của người học. Như vậy
 với loại hình các môn học này, dấu ấn riêng của các giáo viên bị phai 
mờ, không còn mấy quan trọng so với loại hình các môn học đóng. Sự khác 
biệt giữa hai lọai hình nói trên tựa như sự khác biệt giữa giáo dục đại 
cương và chuyên ngành đang được áp dụng trong các trường đại học ở Việt 
Nam. Mặc dầu nền giáo dục đại học ở ta hiện đang được quản lý mang tínnh
 tập quyền cao độ, cả hệ thống đại học tựa như một trường duy nhất nơi 
mà Bộ GD đóng vai trò của ban giám hiệu, các trường đại học chỉ như 
những phân khoa làm theo mệnh lệnh từ trên xuống. Một hệ thống phổ biến 
với nhiều cái “chung” (thi tuyển sinh chung, quy chế chung, chương trình
 khung chung…), thế nhưng Bộ cũng không thể can thiệp sâu vào việc giảng
 dạy các môn học chuyên ngành, nghĩa là ở các môn học này, giảng viên có
 thể thể hiện cái riêng của mình hơn là nội dung của các môn học đại 
cương hay các môn học chính trị với những chương trình chung, giáo trình
 chung và cách tổ chức thi cử, chấm điểm nhiều khi cũng chung. 
Từ
 sự phân biệt như trên, nhà sáng lập xã hội học curriculum Bernstein 
nhấn mạnh vai trò quan trọng của các giáo viên trong việc giảng dạy đối 
với loại hình các môn học đóng, ở những môn học này, giai cấp thống trị 
không thể kiểm soát toàn bộ, và áp đặt những ảnh hưởng của mình lên 
người học một cách hoàn tòan.
Michel F.D. Young, trong tham luận tham gia hội thảo thường niên tổ chức bởi Hiệp hội Xã hội học Anh
 tại Durham năm 1970, đã trình bày cách đặt vấn đề nghiên cứu cho xã hội
 học curriculum bằng cách nhấn mạnh đến các vấn đề về nội dung chương 
trình, phương pháp giảng dạy, các quá trình soạn thảo các nội dung 
chương trình, các quy trình đánh giá kết quả học đường cũng như cách 
thức tổ chức và quản lý đào tạo trong trường học. Nhà xã hội học này đã 
đề nghị một hướng nghiên cứu mới trong xã hội học giáo dục bằng cách 
nhấn mạnh những vấn đề liên quan đến những kiến thức đang được giảng dạy
 trong nhà trường, ông ta đề nghị phải đặt những kiến thức này trong sự 
liên hệ với xã hội khi phân tích, ví dụ sự liên hệ giữa cấu trúc các 
kiến thức trong các chương trình giảng dạy và phân tầng xã hội, giữa cấu
 trúc của quyền lực chính trị và cấu trúc nội dung chương trình giảng 
dạy, giữa các giá trị xã hội và các loại hình kiến thức được lựa chọn, 
vv. Tóm lại, cũng như các nhà xã hội học theo chủ nghĩa tranh đấu, Young
 nghiên cứu sự ảnh hưởng, những dấu ấn chính trị, ý thức hệ của giai cấp
 thống trị lên giáo dục thông qua những phân tích các chương trình, nội 
dung, quy trình đào tạo…
Nhìn chung, các 
nhà xã hội học trong thập niên 1960 – 1970, tập trung chủ yếu trên mặt 
chính thức của nội dung chương trình giảng dạy chứ không lưu ý đến ảnh 
hưởng, những tác động của các chương trình nội dung giảng dạy lên người 
học xét về mặt xã hội cũng như về mặt nhận thức. Những điều này đã được 
các nhà xã hội học curriculum (Lawrence Stenhousse, 1975; R. Dale, 1977)
 bổ sung về sau bằng cách phân tích curriculum dưới hai khía cạnh: “chính danh” (formel) và “thực tiễn” (reel) hay có tác giả còn sử dụng thuật ngữ “che giấu"
 (caché). Cũng vậy, Viviane Isambert – Jamati (1990), một trong những 
nhà xã hội học curriculum của Pháp đã phân tích nội dung giảng dạy ở cấp
 trung học cơ sở của pháp trong Les savoirs scolaires (Kiến thức học đường). Cuốn sách này được chia làm hai phần, trong phần thứ nhất, tác giả đề cập đến mặt chính danh,
 bằng cách mổ xẻ hình thức cơ cấu các chương trình, nội dung giảng dạy 
về các khía cạnh: thời lượng, khối lượng kiến thức, sự phân bố, sự vận 
dụng và thay đổi các nội dung chương trình này. Những điều này được tác 
giả đặt trong liên hệ với các nhóm xã hội để tìm xem chúng bị ảnh hưởng 
bởi nhóm nào, ai là tác giả, ai có thẩm quyền quyết định, chúng phục vụ 
ai… Trong phần hai của quấn sách, tác giả đề cập đến mặt “thực tiễn”
 bằng cách quan sát những lựa chọn của các giáo viên thông qua những 
chương trình riêng cũng như các hoạt động của họ. Nhà xã hội học này 
nhận thấy rằng, một chương trình có sẵn, áp đặt từ trên xuống, dẫu có 
chi tiết, có bị kiểm soát đến đâu, cũng không được giáo viên vận dụng 
hoàn toàn trong lớp học. Nghĩa là từ chương trình nội dung chính thức 
trên văn bản đến chương trình nội dung mà học sinh tiếp nhận trong lớp 
học thông qua sự truyền thụ của giáo viên luôn có khoảng cách. Như
 vậy, nhà xã hội học này đã định nghĩa thuật ngữ curriculum một cách 
rộng và chi tiết hơn các nhà xã hội học curriculum trước đây. Curriculum
 không chỉ bao gồm nội dung chương trình, các phương pháp sư phạm được 
áp dụng trong một cấp đào tạo nào đó mà còn là các hình thức quản lý 
hành chánh, quản lý đào tạo trong trường học, cũng như luôn cả những 
chuyển biến của chúng. 
Nghiên cứu mặt thực
 tiễn của curriculum nhằm mục đích nhận dạng những ảnh hưởng của nhóm 
cầm quyền trong xã hội cũng như nhằm nêu lên những ảnh hưởng đến từ các 
tác nhân trong trường học như giáo viên và học sinh lên curriculum. Nếu 
như sự áp đặt của nhóm cầm quyền trong xã hội thường thể hiện trên các 
văn bản chính thức, thì những ảnh hưởng đến từ các vai diễn trực tiếp 
trên sân khấu giáo dục thường là “dấu mặt” không danh chính trên các văn
 bản chính thức, nhưng lại có thật trong sinh hoạt giáo dục. Theo cách 
nói của J.C. Forquin là những khía cạnh không công khai rõ ràng, nhưng 
lại hiện hữu trong trường học như vai trò, những cảm nhận, những ảnh 
hưởng, những kỹ năng, kiến thức vv, tất cả những gì phụ thuộc phía người
 dạy và người học cũng như phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế xã hội. Bằng 
cách này,Viviane Isambert – Jamati đã làm cho khái niệm curriculum có 
tính xã hội học hơn, bởi ông đã đặt nó giữa các mối liên hệ xã hội và 
thao tác nó trong một môi trường kinh tế xã hội chính trị cụ thể. 
Như
 vậy, tóm lại trong ý nghĩa mà các nhà xã hội học của các nước nói tiếng
 anh sử dụng, khái niệm curriculum ám chỉ những gì được giảng dạy, được 
học tập trong một cấp học nào đó từ giáo dục tiểu học đến đại học. 
Kết luận
Cũng
 như xã hội học nói chung, xã hội học giáo dục ra đời và phát triển gắn 
liền với quá trình biến chuyển xã hội. Sự biến chuyển kinh tế xã hội và 
chính trị sâu sắc tại các nước Âu - Mỹ nói riêng và trên toàn thế giới 
nói chung vào những năm 1970 đã làm khai sinh dòng lý thuyết xã hội học 
curriculum, lý thuyết này đã kế thừa và dung hòa nhiều khuynh hướng, 
nhiều chủ nghĩa khác nhau về mặt lý luận cũng như phương pháp luận trước
 đó. Một cách cụ thể, lý thuyết này là gạch nối giữa cách lập luận của 
các nhà lý thuyết tái tạo vốn luôn cho rằng nhà trường là công cụ của 
giai cấp thống trị, được sử dụng để tái tạo và cũng cố quyền lực của họ,
 và các nhà lý thuyết các trường phái tương tác luận và hiện tượng luận 
luôn đề cao vai trò của các chủ thể trong giáo dục như giáo viên và học 
sinh. Lý thuyết curriculum tìm cách dung hòa cả hai khuynh hướng khi cho
 rằng họ tìm thấy vô số các dấu ấn từ giai cấp cầm quyền thông qua những
 phân tích nội dung chương trình giảng dạy, quá trình biên soạn chúng, 
cũng như các khâu trong quy trình tổ chức giảng dạy trong nhà trường, 
nhưng mặt khác, họ cũng tìm thấy những ảnh hưởng đến từ các chủ thể của 
giáo dục như vai trò của giảng viên, của sinh viên trong các quy trình 
này. 
Các nhà xã hội học curriculum luôn đề
 cao các chiều kích xã hội trong khi phân tích các vấn đề giáo dục. Ðiều
 này rất có ý nghĩa trong việc phân tích các vấn đê giáo dục của Việt 
Nam chúng ta hiện nay. Ðã có nhiều công trình nghiên cứu, các ý kiến mổ 
xẻ các vấn đề của nền giáo dục, nhưng xem ra ít có tác giả lưu ý đủ đến 
những chiều kích xã hội của các vấn đề này cũng như không quan tâm đủ 
những ảnh hưởng đến từ các vai diễn trên sân khấu giáo dục. Ða phần, khi
 phân tích các vấn đề giáo dục, các tác giả thường chỉ khép chúng trong 
lĩnh vực giáo dục, lấy một hiện tượng giáo dục này cất nghĩa một hiện 
tượng giáo dục khác. Chẳng hạn, như cách lý luận đơn giản rằng, nguyên 
nhân của chất lượng giáo dục đại học kém là do đội ngũ giảng viên yếu, 
hay do nội dung chương trình lạc hậu, cơ cấu bất hợp lý, vv. 
Dưới
 tiếp cận của xã hội học curriculum, chúng ta có thể đi tìm nguyên nhân,
 gốc rễ của những trục trặc, những vấn đề trong giáo dục hiện nay ngoài 
xã hội. Ví dụ, chúng ta có thể phân tích những liên hệ tương tác giữa cơ
 cấu của các nội dung chương trình giảng dạy, của tổ chức hành chánh, 
đào tạo trong trường đại học và cơ cấu của hệ thống chính trị, của ý 
thức hệ chính thống…. Liệu có phải những trục trặc, mâu thuẫn trong giáo
 dục hiện nay đang phản ánh những trục trặc, mâu thuẫn trong xã hội 
không ? Những thay đổi cải cách trong giáo dục hiện nay có liên hệ thế 
nào với công cuộc đổi mới ? Những câu hỏi này đã được nhà sáng lập xã 
hội học người Pháp trả lời từ đầu thế kỹ 20: “Một sự thay đổi giáo dục luôn là kết quả, là dấu hiệu của một sự thay đổi xã hội”
 (E. Durkheim, 1969, tr. 194). Nghĩa là câu trả lời là có, nhưng hình 
dáng các liên hệ ấy như thế nào, mức độ ra sao trong hoàn cảnh riêng của
 nước ta hiện nay ? bản chất của giáo dục Việt Nam là gì ? Nhà trường là
 Cổ máy ý thức hệ của Nhà nước (appareil idéologique d’État) 
như cách nhìn của L. Althusser (1969), hay là nơi gặp gỡ của nhiều thành
 phần kinh tế - xã hội và chính trị như Ðảng – Nhà nước, các nhà tuyển 
dụng, các giáo viên, các học sinh và gia đình của họ… ? Trong những 
thành phần này, bên nào đang ảnh hưởng nhiều nhất trên giáo dục ? vv.
 Chúng ta có thể trả lời những câu hỏi này bằng cách sử dụng lối tiếp 
cận của xã hội học curriculum. Nói tóm lại, các nhà xã hội học 
curriculum đang gợi ý vô số đề tài, mà có lẽ ở nước ta chưa có mấy người
 khai thác. Tất cả đang chờ các nhà xã hội học Việt Nam.
Nguon: Tap Chi Xa Hoi Hoc - so 01 - 2008
Tài liệu tham khảo
2. Bergh Anne – Marie. (2001). - Curriculum 2005 : tensions entre politiques et pratiques en Afrique du Sud, dans Contenus d’enseignement dans un monde en mutation : permanences et ruptures (Các tham luận hội thảo quốc tế) : L'Harmattan.
3. BERNSTEIN B. (1975). - Classes et pédagogies, visibles et invisibles [dịch qua tiếng Pháp bởi
 Jean- Claude Chamboredon], Paris : Centre pour la recherche et 
l'innovation dans l'enseignement, Organisation de coopération et de 
développement économiques.
4. BOURDIEU PIERRE ET PASSERON JEAN CLAUDE. (1964). - Les héritiers, les étudiants et la culture, Paris : Les éditions de Minuit.
5. BOURDIEU PIERRE et PASSERON JEAN CLAUDE. (1970) - La Reproduction, Paris : Les éditions de Minuit
6. Barry Cooper. - “On explaining Change in School Subjects”, Bristish Journal of Sociology of Education, (3), 1983, tr. 207 – 222.
7. DURKHEIM EMILE. (1922.) - Education et Sociologie, Paris : PUF.
8. DURKHEIM EMILE. (1969). - L'évolution pédagogique en France, Paris : PUF.
- Duru - Bellat Marie et Agnès van Zanten. (1999). - La Sociologie de l’école, Paris : Atmand Colin.
 
11. Felouzis Georges. (2003). - Les mutations actuelles de l’Université, Paris : PUF
12. FORQUIN J.C. (1996). - L’école et culture : le point de vue des sociologues britanniques, Paris ; Bruxelles : De Boeck Université.
13. FORQUIN J.C. (1997). - Les sociologues de l'éducation américains et britanniques, Présentation et choix de textes, Paris, Bruxelles De Boeck : Université et Larcier s.a.
14. ISAMBERT - JAMATI VIVIANE. (1990). - Les savoirs scolaires : Enjeux sociaux des contenus d’enseignement et de leurs réformes, Paris : Editions universitaires.
- PETITAT ANDRE. (1982). - Production de l'école - production de la société, Genève ; Paris : Droz.
 - Ropé Françoise. - Sociologie du curriculum et didactique du français en France, Revue Française de Pédagogie, (135), 2001.
 
18. Young Michael. (1971). Knowledge and Control: New directions for the Sociology of Education, Londres: Collier - Macmillan
19. Nguyễn Khánh Trung. (2006). - L’université dans la societé vietnamienne actuelle, du curriculum formel au curriculum reel : Observation de trois établissements à Ho Chi Minh – Ville ( luận án tiến sĩ), Ðại học Toulouse 2 – Le Mirail ( Pháp)
20. TROTTIER, C. - La nouvelle sociologie de l’ éducation en Grande Bretagne. Revue Francaise P édagogie, (78), 1987, tr. 5 – 20.
[1]
 Chúng tôi mạn phép sử dụng trực tiếp thuật ngữ “curriculum”, (số nhiều 
là curricula - tiếng La – Tinh), bởi không thể tìm ra một thuật ngữ 
tương đương bằng tiếng Việt diễn tả đúng ý nghĩa mà các nhà xã hội học 
nói tiếng Anh muốn diễn tả. Với các nhà nhà xã hội học này, khái niệm 
“curriculum” được định nghĩa rất rộng, không những chỉ nội dung chương 
trình giảng dạy, cách thức xây dựng lựa chọn chúng, mà còn luôn cả 
phương thức thực hành sư phạm, các hình thức tổ chức thi cử, tổ chức 
quản lý giáo dục, nhân sự, vv. Chúng tôi sẽ giải thích một cách rõ hơn 
trong phần trình bày về định nghĩa của khái niệm curriculum ở phần cuối 
của bài viết. 
* Tiến sĩ xã hội học – Trung tâm Nghiên cứu về Lý luận và Kiến thức (CERS), Ðại học Toulouse 2 – Le Mirail (Pháp).
[2] Ví dụ: xem Hoàng Tụy, Giáo dục và khoa học trước thử thách hội nhập, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 44 – 2007, ngày 25 – 10 – 2007.
[3]
 Khái niệm “tái tạo” được nhiều nhà xã hội học như Pierre Bourdieu, A. 
Petitat sử dụng để đặt tên cho các lý thuyết nhấn mạnh đến chức năng tạo
 và tái tạo lại các chuẩn mực, giá trị, trật tự xã hội, những kiến thức,
 kinh nghiệm… có sẵn trong xã hội của trường học. Nổi bật hơn cả là dòng
 lý thuyết chức năng luận bắt nguồn từ E. Durkheim và lý thuyết tranh 
đấu hoặc có nguồn gốc từ K. Marx hoặc ngoài Marx. Tuy các lý thuyết này 
khác nhau về lý luận, nhưng đều cho rằng, nhà trường luôn nằm trong tay 
của giai cấp thống trị và vai trò của nó là tái tạo lại sự thống trị của
 giai cấp này.
No comments:
Post a Comment