(Tham
luận Hội thảo « Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học » - Đại
Học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, ngày 13/4/2012)
Tôi đang đọc say mê cuốn sách có tựa đề « Cuộc
cạnh tranh chất xám vĩ đại” của Ben Wildavsky (2010), tác giả đã vẽ lên một
bức tranh toàn cảnh về giáo dục đại học trên thế giới, nơi đó đang diễn ra một
cuộc cạnh tranh lớn về chất xám, các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc, các nước Châu
Âu, Ả Rập, Nhật, Trung Quốc, Singaport..., đang tung ra những
chiến lược nhằm thu hút các nhà nghiên cứu tên tuổi, các giảng viên và sinh
viên giỏi đến với mình. Điều này không những mang lại lợi nhuận cho các nước
giàu mà còn mang lại hàm lượng chất xám hết sức có ý nghĩa trong thời đại kinh
tế tri thức ngày nay. Dòng chảy chất xám đang chảy mạnh từ Đông sang Tây, từ những
nước nghèo sang những nước giàu. Việt Nam chúng ta đang là một thị trường của họ.
Trào lưu du học mà có nhiều người miêu tả như là hiện tượng “tị nạn giáo dục”,
hay du học tại chỗ là những biểu hiện của việc chảy máu chất xám này.
Như vậy giáo dục, trong trường hợp này là giáo
dục đại học, đang là một thị trường, một thị trường to lớn bao trùm toàn cầu,
biên giới quốc gia ngày càng không mấy ý nghĩa. Hành động lựa chọn của người học
quyết định sự thành bại của một cơ sở giáo dục cũng như sự nghiệp giáo dục của
một quốc gia. Việt Nam mong muốn hội nhập với thế giới, nghĩa là chấp nhận chơi
chung trên một sân chơi, nơi đó sự cạnh tranh là quyết liệt, nếu chúng ta không
làm gì, hay làm nhưng lại quá dị biệt so với đường đi chung của thế giới, thì
chúng ta sẽ phải hứng chịu hậu hoạ cả hiện tại và tương lai.
Như vậy “thị trường học đường – marché scolaire » là gì ? Thị trường
học đường là tên gọi của một lý thuyết trong nghiên cứu giáo dục, nhưng nó cũng
là một mô hình tổ chức giáo dục, một khuynh hướng cải cách của nhiều nước trên
thế giới hiện nay. Trong bài tham luận này, tôi sẽ không nói đến khái niệm này
như là một lý thuyết nghiên cứu, nhưng nói đến nó như một mô hình giáo dục.
Khái niệm
Thị trường là một
khái niệm của kinh tế học, nhưng các nhà nghiên cứu đã « xã hội học
hoá » (Georges Felouzis, 2011) nó để biến thành một công cụ giúp lý giải
những cơ chế cạnh tranh, điều tiết giữa các tác nhân (acteur) trong giáo dục, cũng
như giúp phân tích tính đặc thù của hệ thống giáo dục tại các quốc gia khác
nhau.
Như vậy, thị trường
học đường không phải là « thương mại hoá giáo dục» vốn
xem giáo dục như một loại hàng hoá có thể trao đổi trên thị
trường như các loại hàng hoá khác. Gọi là thị trường là vì
trong giáo dục có các tác nhân khác nhau (Nhà nước, nhà trường, học sinh và gia
đình), có thương lượng, có sự điều tiết, có cung và cầu, có sự chọn lựa, có sự
cạnh tranh.
Những yếu tố cần để có thể
tạo ra một thị trường học đường
Sư cạnh tranh : cũng như
kinh tế, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự phát triển. Một cơ chế tạo ra sự cạnh
tranh giữa các trường (trường công, trường tư…) sẽ thúc đẩy sự phát triển. Muốn
có cạnh tranh phải có tự do, có sự đa dạng để tạo ra sự chọn lựa. Để thúc đẩy sự
cạnh tranh này, các quốc gia như Bỉ, Hà Lan, và gần đây là Pháp, Anh... đã tiến
hành cải cách theo hướng tăng quyền tự do chọn lựa cho người học và gia đình của họ.
Người học - gia đình và sự tự do chọn lựa : tự do chọn lựa trường lớp, chọn nội dung, chương trình theo học,
chọn giáo viên vv. Hành động chọn lựa của các gia đình và người học là thước đo,
quyết định sự thành bại của từng trường, do đó buộc các trường phải cạnh tranh
với nhau, chú ý đến danh tiếng, đến chất lượng đào tạo, chất lượng các dịch vụ,
sự đa dạng hoá nguồn cung nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của khách hàng, cũng
là nhu cầu của xã hội. Karin Müller (2011) cho thấy, người
học và các gia đình thường quyết định chọn lựa trường cho mình dựa trên yếu tố
« chất lượng »[1]
và môi trường sư phạm mà trường đó tạo ra. Hay nói cách khác, người học và gia đình
họ là một tác nhân quan trọng trong thị trường giáo dục, họ tham gia vào sự
« điều tiết » thị trường thông qua hành động lựa chọn của mình.
Nhà trường và quyền tự chủ : Để tạo ra sự cạnh tranh, cơ sở
giáo dục phải có tự do, tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Tuyển sinh thế nào, giảng
dạy những gì và ra sao, tổ chức thế nào vv, phải là quyền riêng của các trường,
nhất là trường đại học. Nhờ sự tự chủ đó, cơ sở đào tạo mới có thể xây dựng các
chiến lược phát triển riêng, tạo ra sự khác biệt, tính đặc thù, khẳng định thương hiệu nhằm có thể thu hút và giữ chân các sinh
viên, nhất là những sinh viên giỏi. Những sinh viên giỏi vừa là nguồn kinh phí
cho trường, vừa tạo ra tiếng tăm cho trường.
Vai trò Nhà nước
Chúng ta không thể
phủ nhận vai trò của Nhà nước trong giáo dục. Tại bất kỳ quốc gia nào, thông
qua những chính sách về giáo dục của mình, Nhà nước đều ít nhiều tác động, lèo
lái và ảnh hưởng trên giáo dục, ảnh hưởng trên sự điều tiết, trên hành vi, chiến
lược của các tác nhân khác trên thị trường giáo dục. Thế nhưng đa phần tại các
nước có nền giáo dục phát triển, Nhà nước đã không vì chuyện tiền bạc mình bỏ
ra đầu tư mà có quyền thống trị thị trường, nhưng chỉ được xem là một tác nhân,
một bên trong sự tương tác với các tác nhân khác mà thôi.
Tại các nước phương
Tây, Nhà nước là bên đầu tư chính cho giáo dục với mục đích là đảm bảo công bằng
trong cơ hội, đảm bảo quyền được học hành của người dân. Nhà nước không những là
nhà đầu tư chính cho các trường công, mà
còn cho các trường tư. Tại Bỉ, Nhà nước tài trợ cho các trường tư dựa vào số lượng học sinh, hay dựa vào kết quả học tập của người
học. Nhưng làm sao để có được nhiều học sinh đến học, có nhiều học sinh đạt kết
quả tốt (theo sự kiểm định của Nhà nước) để tranh thủ kinh phí của Nhà nước lại
là chuyện riêng của trường. Ðiều này vừa đảm bảo được quyền tự do chọn trường của
các gia đình, vừa kích thích sự cạnh tranh giữa các trường bằng cách đem ra những
chiến lược bảo đảm chất lượng, củng cố uy tín để thu hút học
sinh. Tại Hoa Kỳ, Nhà nước đầu tư một quỷ rất lớn cho giáo dục, chẳng hạn vào năm
2006 là 250 tỷ USD, khoảng 70% sinh viên đại học được nhận
một khoản chi phí nào đó[2].
Thế nhưng Nhà nước lại không có quyền can dự vào chuyện nội bộ của trường như
chương trình nội dung giảng dạy, tuyển dụng và bố trí nhân sự, cách thức tuyển
lựa sinh viên. Pháp cũng đang cải cách theo chiều hướng này. Theo tinh thần bộ
luật về giáo dục đại học 2007, thì đại học tại quốc gia này đang nhận được quyền
tự chủ rất lớn, hội đồng trường là bộ phận quyền lực nhất, bầu ra hiệu trưởng,
quyết định các chính sách, đường hướng phát triển của trường[3],
trong khi Nhà nước vẫn phải đóng vai trò là nhà tài trợ chính.
Tại Việt Nam, đặc điểm nổi bật là chính sách tập quyền
trong quản lý giáo dục. Nhà nước bao sân, lấn át, thậm chí triệt tiêu tự do của
các tác nhân khác. Trong giáo dục đại học chẳng hạn, Nhà nước xen sâu vào công
việc đáng lý ra là của trường như tổ chức tuyển sinh, khống chế chỉ tiêu tuyển
sinh, đặt để bố trí nhân sự, can dự vào nội dung chương trình giảng dạy...
trong khi nhiệm vụ, trách nhiệm chính của mình lại có khuynh hướng đẩy cho phía
nhà trường, mà thực ra là đẩy cho phía người dân, đó là vấn đề kinh phí. Những điều
này hết sức xa lạ với cách thức quản trị đại học tại các nước có nền học thuật
mạnh nhất, nó cản trở và triệt tiêu các quyền và sự đóng góp đến từ các tác
nhân bên dưới.
Kết luận
Khuynh hướng chung
hiện nay là hướng về mô hình thị trường giáo dục bằng cách tăng quyền tự quyết
cho các trường, tăng quyền tự do lựa chọn, và đối tượng lựa
chọn cho người học và gia đình họ nhằm kích thích sự cạnh tranh giữa
các trường. Ngay cả với những nước có truyền thống đề cao tính liên đới xã hội,
như Pháp với việc bãi bỏ các “kế hoạch giáo dục – carte scolaire”
ở cấp học phổ thông và việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học theo tinh
thần Luật Ðại học 2007. Không những xảy ra tại các nước Tây Âu, nhưng khắp nới
trên thế giới.
Theo tôi, thị trường hoá
giáo dục theo nghĩa mà tôi đang nói tới là một cách làm mà Việt Nam nên học hỏi,
thứ nhất, đây là cách làm hướng về người học và các phụ huynh, đặt họ làm trung
tâm trong phương cách quản lý điều hành giáo dục, cũng như trong quan hệ sư phạm
giữa thầy và trò. Kế nữa, cách làm này kích thích các trường cạnh tranh và buộc
các trường phải đặt chất lượng, đặt nhu cầu của xã hội lên hàng đầu trong các
chiến lược phát triển của mình. Sau hết, cách làm này không ảnh hưởng gì đến sứ
mệnh và vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền học hành của người dân, tạo
sự bình đẳng xã hội. Nhà nước làm điều này thông qua các chính sách, đặc biệt là
đầu tư ngân sách cho các trường, cho những người nghèo, những trường hợp cá biệt
trong xã hội như Phần Lan, Ðan Mạch vẫn đang làm.
Giáo
dục hiện đại nên là địa bàn chung, là nơi gặp gỡ giao thoa giữa nhiều bên,
nhiều tác nhân trong một cơ chế cạnh tranh và dân chủ. Các bên gặp nhau trong
những cơ chế thương lượng và điều tiết, tuy phải phụ thuộc và chịu ảnh hưởng
lẫn nhau, nhưng mỗi bên đều có khoảng trống, có quyền hạn riêng. Có ảnh hưởng
từ Nhà nước trên các trường và các gia đình, nhưng cũng có ảnh hưởng từ các gia
đình, người học và nhà trường lên các chính sách của Nhà nước. Sự tương tác phụ
thuộc lẫn nhau này trong một cơ chế cạnh tranh giữa các trường, trong một tinh thần
sư phạm và thái độ phục vụ hướng về người học sẽ làm hài hoà
và thúc đẩy giáo dục phát triển.
Mỹ
đang có một nền giáo dục rất phát triển
mà không những Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới muốn học hỏi. Ðiều gì
đã làm nên kỳ tích này? Nhiều nhà nghiên cứu đã bình luận điều làm nên sự phát
triển nhanh, sự đa dạng và phong phú của giáo dục Mỹ không phải nhờ vào sự chỉ
đạo thống nhất, tập trung từ trung ương mà chính là nhờ vào những lựa chọn,
những quyết định trong cơ chế cạnh tranh của thị trường giáo dục. Ðây là bài
học lớn cho Việt Nam đang trên đường đi tìm lối ra cho sự khủng
hoảng giáo dục hiện nay.
Tài
liệu tham khảo
1. Xem Georges Felouzis. (2011). « Les
marchés scolaires et l’éducation comparée ». Éducation comparée. Revue de recherche internationale et
comparative en education. Nouvelle série. Số 6/ 2011, tr. 10 – 11.
2.
Johnstone, B.D. “The US Higher
Education System”. Trích bởi Xem Lâm Quang Thiệp. (2011). Humboldt, Mỹ và đại
học Việt Nam. Kỷ yếu Ðại học Humboldt 200 năm (1810 – 2010) – Kinh nghiệm thế
giới và Việt Nam. Hà Nội. Nxb. Tri Thức. Tr. 299.
3. Loi n 2007 – 1199 du 10 aout 2007 relative aux
libertes et responsabilites des universites.
4. Xem Karin Müller (2011). « Libre choix
des ecoles – Libre choix de quoi et par Qui? » Éducation comparée / nouvelle série, số °6/2011, pp. 29-48.
5. Xem Lâm Quang Thiệp. (2011). « Humboldt,
Mỹ và đại học Việt Nam ». Kỷ yếu Ðại
học Humboldt 200 năm (1810 – 2010) – Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam. Hà
Nội. Nxb. Tri Thức, tr. 296.
6. Ben Wildavsky. (2010). « Cuộc cạnh tranh
chất xám vĩ đại » (dịch sang tiếng Việt bởi Tô Diệu Lan). Hà Nội :
NXB. Trí Thức và Đại Học Hoa Sen. 2012.
7. Nguyễn Khánh Trung. (2011). « Khái niệm thị trường
giáo dục và vai trò các tác nhân ». Tia Sáng Oneline : http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=4776.
Lên mạng ngày 29-12-2011.
8. Nguyễn Khánh Trung. (2012). « Gia đình và thị trường giáo dục ». Tạp chí Tia Sáng, số 03 – 05.2.2012. Tr.
39 – 41.
[1] Khái niệm
chất lượng hoàn toàn có tính xã hội, phụ thuộc vào lăng kính văn hoá, vào trình
độ nhận thức của mỗi người. Trong nhiều quốc gia, người dân dựa vào kết quả kiểm
định thực hiện bởi Nhà nước, hay bởi các cơ quan kiểm định độc lập để làm căn cứ
đánh giá, và lấy quyết định chọn trường.
[2]
Johnstone, B.D. “The US Higher Education System”. Trích bởi Xem Lâm Quang Thiệp.
(2011). Humboldt, Hoa Kỳ và đại học Việt
Nam. Kỷ yếu Ðại học Humboldt 200 năm
(1810 – 2010) – Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam. Hà Nội. Nxb. Tri Thức.
Tr. 299.
No comments:
Post a Comment