Viện Nghiên cứu Phát triển IDS
Sau hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế ấn tượng dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, lao động giá rẻ
và tài nguyên thiên nhiên, đã đến lúc muốn tiếp tục đi lên một cách bền vững đất nước
cần mau chóng chuyển sang hình thái phát triển mới, dựa chủ yếu vào trí tuệ và tài năng.
Do đó chưa bao giờ chấn hưng giáo dục trở thành nhiệm vụ bức thiết như lúc này. Mười
ba năm trước TƯ đã có nghị quyết xác định phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học,
công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết rất đúng đắn, tiếc rằng việc triển khai thực
hiện bất cập nên sau gần mười năm, Thủ Tướng Phan Văn Khải đã phải thừa nhận chúng
ta không thành công trong giáo dục và khoa học.
Với ý thức trách nhiệm công dân, năm 2004 một nhóm 24 nhà giáo dục, khoa học và văn
hóa đã gửi lên TƯ một bản điều trần kêu gọi cải cách, hiện đại hóa giáo dục. Bản điều
trần này đã được nhiều tầng lớp xã hội hưởng ứng rộng rãi. Từ đó đến nay, tuy tình hình
đã có nhiều thay đổi lớn, song những vấn đề được đề cập trong bản điều trần về cơ bản
vẫn còn nóng hổi tính thời sự và vẫn tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ ai lo
lắng đến tương lai con em và tiền đồ dân tộc. Vì vậy, chúng tôi khẩn thiết kiến nghị TƯ
một lần nữa xem xét nghiêm túc các vấn đề nêu trong bản điều trần để kịp thời lựa chọn
quyết sách chấn hưng giáo dục.
Để giúp thêm TƯ có cơ sở lựa chọn quyết sách, dưới đây chúng tôi xin bổ sung và phát
triển bản điều trần ở mấy phần chính: 1) nhận diện tình thế khủng hoảng của giáo dục; 2)
những sai lầm chủ yếu làm tha hóa giáo dục; 3) các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
của giáo dục; 4) chấn hưng, cải cách giáo dục là mệnh lệnh cuộc sống; 5) một số việc
cấp bách cần làm trong khi chưa cải cách.
1. Nhận diện tình thế khủng hoảng của giáo dục
Bản điều trần năm 2004 đã nêu vắn tắt thực trạng nghiêm trọng của giáo dục cho đến thời
điểm ấy. Bốn năm qua, những căn bệnh chủ yếu của giáo dục chưa hề thuyên giảm. Mặc
cho những khoản đầu tư tăng liên tục và những cố gắng tích cực chấn chỉnh quản lý hai
năm gần đây, chúng ta vẫn tiếp tục tụt hậu so với khu vực và thế giới. Theo báo cáo giám
sát toàn cầu về giáo dục của UNESCO năm 2008 vừa mới công bố, VN tiếp tục mất điểm
về chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) và tụt 9 bậc trong bảng xếp hạng EDI
trong 5 năm từ 2004 đến 2008, đứng dưới cả Malaysia, Indonesia, Trung Quốc là những
nước trước đây thua kém VN về EDI. Về đại học, nhiều số liệu đáng tin cậy cho thấy sự
tụt hậu rất xa của các đại học của ta so với ngay cả các đại học của Thái Lan hay
Malaysia về nghiên cứu khoa học – tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng đại học.1)
Theo đánh giá của WEF (Diễn đàn Kinh tế Thế giới) đào tạo và giáo dục đại học là một
trong ba lĩnh vực yếu nhất, đáng lo ngại nhất, của Việt Nam. Sự yếu kém giáo dục cũng
được phản ảnh rõ trong việc năng lực cạnh tranh toàn cầu của VN năm 2008 tụt thêm hai
bậc, sau khi đã tụt bốn bậc năm 2007.
1) Phạm Duy Hiển: “Đại học hàng đầu ở Thái Lan và Việt Nam”, tạp chí Tia Sáng số 2,20/1/2007
2
Giáo dục là một hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, cấu trúc tổ chức (bao
gồm các phần tử và các hệ thống con), phương thức vận hành và hiệu quả hoạt động. Nếu
về mỗi yếu tố ấy đều có quá nhiều trục trặc nghiêm trọng kéo dài hàng thập kỷ mà không
khắc phục được, khiến mọi sự điều chỉnh cục bộ theo cơ chế sai-sửa-sai như lâu nay đã
thực hiện đều không cứu vãn nổi, thì tình trạng ấy phải được nhận diện là sự khủng
hoảng.
Nhìn lại hệ thống giáo dục VN, những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ từ lâu và hiện đã
vượt quá xa giới hạn báo động.
Từ chỗ trước đây là sự nghiệp toàn dân, nay giáo dục đã dần dần mất phương hướng,
không còn rõ giáo dục cho ai, vì ai, để làm gì. Học sinh bỏ học nhiều, cơ hội được đi học
đối với con em các gia đình nghèo còn khó, mà cơ hội học được đến nơi đến chốn càng
khó hơn, do nhiều vấn nạn về học phí, sách giáo khoa, học thêm, thi cử, học xong rồi làm
gì, v.v. Trách nhiệm của Nhà Nước đối với giáo dục có xu hướng sút giảm dần, nhường
chỗ cho quan niệm tư nhân hóa cực đoan đang gia tăng theo chiều hướng phủ nhận giáo
dục với tính chất là lợi ích công, muốn biến nó thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận
mua vừa bán theo luật cung cầu của thị trường. Khoảng cách giữa mục tiêu lý thuyết và
thực tiễn thực hiện đang ngày một rộng thêm, đang có nguy cơ đẩy giáo dục xa rời lý
tưởng công bằng, dân chủ, văn minh mà xã hội đang muốn hướng tới.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động giáo dục mất cân đối, rối loạn trầm trọng giữa giáo dục
phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học, giữa công lập và tư thục, giữa chuyên tu, tại
chức, đào tạo liên kết, v.v.... tất cả làm thành một hệ thống rối ren không đồng bộ, thiếu
nhất quán, hoạt động phân tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ, thiển cận,
hơn là quan tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài của cộng đồng. Một hệ thống mấy trăm đại
học, cao đẳng, với chất lượng rất thấp, bên cạnh một hệ thống dạy nghề què quặt, trên
nền một hệ thống giáo dục phổ thông cũ kỹ, lạc hậu, hơn hai thập kỷ nay vẫn loay
hoay triền miên với những thí nghiệm tốn kém không hiệu quả, đó là bức tranh tổng
thể của hệ thống giáo dục VN ở thời điểm này.
Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian
học thuộc lòng những điều lạc hậu vô bổ, mặt khác lại quá thực dụng thiển cận, thiên về
ăn xổi mà coi nhẹ những vấn đề có ý nghĩa cơ bản cho cả xã hội và cho từng cá nhân
như: hình thành nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm thụ. Coi nhẹ kỹ
năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức tính trung thực, năng lực sáng tạo,
năng lực tưởng tượng – những đức tính và năng lực thời nào cũng cần nhưng đặc biệt
thời nay càng cần hơn bao giờ hết. Trong khi đó coi trọng bằng cấp và thi cử hơn học,
khiến thi cử và chạy theo bằng cấp lôi cuốn toàn xã hội, gây ra nhiều lãng phí lớn, và
nhiều tiêu cực như bằng giả, bằng dỏm, học giả, v.v, ảnh hưởng rất xấu đến môi trường
văn hóa tinh thần.
Chất lượng đào tạo sút kém một thời gian dài, đặc biệt ở đại học, cao đẳng và dạy nghề,
khiến nhân lực đào tạo ra còn xa mới đáp ứng được đòi hỏi thực tế về cả ngành nghề,
chất lượng và số lượng. Dân trí thấp – hệ quả tất nhiên của giáo dục yếu kém – tác động
3
tiêu cực đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn giao thông, gây ra hàng loạt vấn
nạn trên mọi phương diện của đời sống. Tuy có một số thành công bước đầu rất hạn chế
qua các lớp phổ thông chuyên, và các lớp cử nhân “tài năng”, kỹ sư “tài năng” mới ra đời
mấy năm gần đây, nói chung việc bồi dưỡng và sử dụng nhân tài còn ở trình độ cực kỳ
sơ khai, lại thiếu môi trường và chính sách thích hợp, nên không những không thu hút
được nhân tài từ nước ngoài mà cũng không giữ chân được số ít ỏi nhân tài đã may mắn
gây dựng được trong nước. Nạn chảy máu chất xám tuy đã được báo động từ lâu song
chưa được ngăn chặn hữu hiệu, mà chỉ nặng về lặp đi lặp lại những lời hô hào và hứa
hẹn.
Trong khi chất lượng giáo dục sa sút thì lãng phí và tham nhũng khiến chi phí cho giáo
dục tăng cao một cách phi lý, trở thành gánh nặng không chỉ cho ngân sách quốc gia, mà
cho mọi gia đình vì phần đóng góp trực tiếp của dân ước tính lên đến hơn 40% tổng chi
cho giáo dục. Điều đáng lo hơn cả là sự lãng phí đó, dù rất lớn vẫn chưa đáng kể so với
sự lãng phí chất xám gây ra bởi chính sách đào tạo và sử dụng nhân tài hẹp hòi thiển
cận.
Bấy nhiêu vấn nạn tích lũy hàng chục năm, ngày một trầm trọng hơn và đến nay vẫn chưa
thuyên giảm, mặc cho mọi cố gắng khắc phục, là bằng chứng của sự khủng hoảng giáo
dục từ bên trong hệ thống. Không phải chỉ đơn thuần là sự khủng hoảng về quy mô, số
lượng, mà nghiêm trọng hơn, là sự khủng hoảng về đường lối (triết lý), về chất, tiềm ẩn
nguy cơ tha hóa không thể coi thường.
Điều may mắn là vượt lên trên tình hình chung không mấy sáng sủa vẫn có những điểm
sáng nhất định, và trong từng cấp học và từng địa phương đều tự phát có những đơn vị
khá thành công, vẫn còn những con người tràn đầy nhiệt huyết và quyết tâm, chứng tỏ
tiềm năng phát triển giáo dục của đất nước còn lớn.
2. Những sai lầm chủ yếu làm tha hóa giáo dục
Sự khủng hoảng giáo dục trước hết là khủng hoảng về chất, điều đó cũng có nghĩa là giáo
dục không chỉ tụt hậu mà đã đi lạc hướng, trở thành lạc lõng, trong trào lưu chung của
thế giới hiện đại. Đó là hậu quả của nhiều năm phạm những sai lầm quản lý có tính hệ
thống làm tha hóa giáo dục.
Sai lầm đầu tiên tai hại nhất, dẫn đến suy thoái trầm trọng đạo đức trong nhà trường, là
chính sách đối với người thầy dựa trên quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người
thầy trong nền giáo dục hiện đại. Từ chỗ phê phán đúng đắn tư duy lạc hậu trong nhà
trường cũ gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và
tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã dần dần xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận
vai trò then chốt của người thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô
sơ, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm” để hạ thấp vai trò người thầy,
khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất
lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem
thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện
đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng
4
phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương: trả lương cho thầy, cô giáo dưới
mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (ban đầu do khó khăn có thật, về sau chỉ là do
tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), buộc thầy, cô phải xoay xở kiếm thêm
thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm ngoài giờ, bằng tay trái, đến nỗi hiện tại
cũng không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể nói không quá đáng
tất cả những căn bệnh trầm trọng về đạo đức nghề nghiệp: gian dối, tiêu cực, lãng phí,
quan liêu… đã tàn phá giáo dục trong nhiều năm đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới
cái lỗi hệ thống cơ bản này.1*)
Sai lầm thứ hai, biến học tập thành một thứ khổ dịch, là tập trung tất cả việc dạy và học
vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để
bảo đảm kết quả học tập vững chắc thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi
“quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà một thời gian dài thiếu nghiêm túc, sinh
ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục Việt Nam: gần thi mới lo học, học đối phó, học
nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc
lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay, sau
nhiều năm đã bỏ, bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Đem việc học
phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ
yếu, đó là tàn tích lạc hậu của lối học từ chương khoa cử, một thời đã bị lên án nhưng dần
dần được khôi phục lại. Trên thì Bộ GD-ĐT có cả một cơ quan đông đúc (nay là Cục
khảo thí) chuyên nghiên cứu qui chế thi, ra đề thi, tổ chức chấm thi, thanh tra, giám sát
thi, mỗi năm một kiểu (năm 2009 càng rắc rối phức tạp hơn mọi năm trước), dưới thì các
lò luyện thi, các lớp học thêm, dạy thêm, các máy sao chụp hoạt động hết công suất để
phục vụ học sinh đi thi. Từ đó đẻ ra những dịch vụ kỳ quái hiếm thấy trên thế giới: sản
xuất “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, mua bằng thật nhưng học giả,
v.v. Cho nên chừng nào còn duy trì cái khổ dịch thi cử này thì kinh tế còn phải trả giá
nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp
phục vụ cho các kỳ thi và mọi thiệt hại (kể cả về tâm lý) phát sinh do thi cử kiểu này, thì
hậu quả xấu rất lơn (riêng về tiền có thể đến cả chục nghìn tỉ đồng mỗi mùa thi), bình
thường đã khó chấp nhận mà trong bối cảnh khó khăn kinh tế càng không thể hiểu nổi.
Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi
cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.
Sai lầm thứ ba, dẫn đến rối loạn vượt quá tầm kiểm soát, là chạy theo số lượng, hy sinh
chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt trong
lĩnh vực quản lý đại học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, công nhận GS, PGS, phát triển đại học)
tình trạng phát triển bừa bãi, dối trá, diễn ra hết sức nghiêm trọng và kéo dài gần hai thập
kỷ. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn không bị loại khỏi cuộc cạnh tranh, ít nhất phải
hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế
nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, cho
1*) Nói thế không có nghĩa chỉ cần giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập thì mọi việc sẽ ổn, mà chỉ có nghĩa:
không làm việc này thì không khắc phục được những tiêu cực khác, làm việc này là điều kiện cần, sine qua
non, nhưng đương nhiên không đủ. Sự thật là cái nghịch lý này đã kéo theo nhiều cái tiêu cực khác, rồi đến
lượt các tiêu cực này dần dần có con đường phát triển riêng, có phần phụ thuộc có phần độc lập cái nghịch
lý kia, vì đã trở thành thói quen khó bỏ. Đó là chưa kể ảnh hưởng của nhiều tiêu cực trong hệ thống lớn (xã
hội). Cho nên, phải sửa chữa nhiều lỗi trong hệ thống lớn (xã hội) nữa, và đi đôi với phá, phải có xây thì
dần dần mới ổn. Tuy nhiên, trong phạm vi giáo dục, đây đúng là một lỗi hệ thống cơ bản.
5
đến việc tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh
nghiên cứu khoa học, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, v.v. phần lớn đều không theo
những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, rất thấp và khác so với
quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi
ích riêng cho từng nhóm ích kỷ. Do đó trong một thời gian ngắn đã xuất hiện hàng vạn
tiến sĩ và hàng nghìn GS, PGS, trong đó một tỉ lệ khá lớn (không dưới 2/3) dưới chuẩn,
thậm chí hữu danh vô thực. Đáng lo nhất là với phong trào đại học hóa ồ ạt, chỉ trong
vòng vài năm đã ra đời hàng trăm đại học, cao đẳng, mà nhiều trường trong số đó chẳng
có lấy một giảng viên đúng chuẩn. Gần đây, do yêu cầu bức bách hội nhập quốc tế và
cạnh tranh đã nảy sinh nhu cầu xây dựng những đại học đẳng cấp quốc tế. Tuy đây là nhu
cầu hoàn toàn hợp lý, nhiều người vẫn lo rằng nếu không cảnh giác với bệnh thành tích
cố hữu thì cái tâm lý nôn nóng có thể dẫn tới một lần nữa chạy theo số lượng và danh
hão, tiêu phí nhiều tiền để mua “danh” nhiều hơn là cầu “thực.” 2) Sự lo lắng không phải
không có cơ sở khi được biết Chính Phủ đã chấp thuận cho Bộ GD-ĐT vay 400 triệu
USD từ WB để xây dựng 4 trường đại học chất lượng cao đến năm 2020 thuộc top 200
đại học tốt nhất thế giới – trong khi đó quan niệm thế nào là đại học đẳng cấp quốc tế hãy
còn rất mơ hồ và bất cập.
Hậu quả tổng hợp của các sai lầm nêu trên là một bộ phận giáo dục dần dần biến chất,
tha hóa, xa rời những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Cái chất thực sự, cái phẩm
chất giáo dục, chẳng còn mấy trong nhiều nhà trường – nơi đạo đức băng hoại, nơi học
tập trở thành khổ dịch, nơi chẳng còn phép tắc, trật tự. Trường không ra trường, thầy
không ra thầy, lời buộc tội nặng nề đó tuy chỉ đúng với một bộ phận của giáo dục, nhưng
cũng đủ để gióng lên hồi chuông báo động đỏ cho toàn ngành.
(con tiep)
Sau hai thập kỷ tăng trưởng kinh tế ấn tượng dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, lao động giá rẻ
và tài nguyên thiên nhiên, đã đến lúc muốn tiếp tục đi lên một cách bền vững đất nước
cần mau chóng chuyển sang hình thái phát triển mới, dựa chủ yếu vào trí tuệ và tài năng.
Do đó chưa bao giờ chấn hưng giáo dục trở thành nhiệm vụ bức thiết như lúc này. Mười
ba năm trước TƯ đã có nghị quyết xác định phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học,
công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết rất đúng đắn, tiếc rằng việc triển khai thực
hiện bất cập nên sau gần mười năm, Thủ Tướng Phan Văn Khải đã phải thừa nhận chúng
ta không thành công trong giáo dục và khoa học.
Với ý thức trách nhiệm công dân, năm 2004 một nhóm 24 nhà giáo dục, khoa học và văn
hóa đã gửi lên TƯ một bản điều trần kêu gọi cải cách, hiện đại hóa giáo dục. Bản điều
trần này đã được nhiều tầng lớp xã hội hưởng ứng rộng rãi. Từ đó đến nay, tuy tình hình
đã có nhiều thay đổi lớn, song những vấn đề được đề cập trong bản điều trần về cơ bản
vẫn còn nóng hổi tính thời sự và vẫn tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ ai lo
lắng đến tương lai con em và tiền đồ dân tộc. Vì vậy, chúng tôi khẩn thiết kiến nghị TƯ
một lần nữa xem xét nghiêm túc các vấn đề nêu trong bản điều trần để kịp thời lựa chọn
quyết sách chấn hưng giáo dục.
Để giúp thêm TƯ có cơ sở lựa chọn quyết sách, dưới đây chúng tôi xin bổ sung và phát
triển bản điều trần ở mấy phần chính: 1) nhận diện tình thế khủng hoảng của giáo dục; 2)
những sai lầm chủ yếu làm tha hóa giáo dục; 3) các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
của giáo dục; 4) chấn hưng, cải cách giáo dục là mệnh lệnh cuộc sống; 5) một số việc
cấp bách cần làm trong khi chưa cải cách.
1. Nhận diện tình thế khủng hoảng của giáo dục
Bản điều trần năm 2004 đã nêu vắn tắt thực trạng nghiêm trọng của giáo dục cho đến thời
điểm ấy. Bốn năm qua, những căn bệnh chủ yếu của giáo dục chưa hề thuyên giảm. Mặc
cho những khoản đầu tư tăng liên tục và những cố gắng tích cực chấn chỉnh quản lý hai
năm gần đây, chúng ta vẫn tiếp tục tụt hậu so với khu vực và thế giới. Theo báo cáo giám
sát toàn cầu về giáo dục của UNESCO năm 2008 vừa mới công bố, VN tiếp tục mất điểm
về chỉ số phát triển giáo dục cho mọi người (EDI) và tụt 9 bậc trong bảng xếp hạng EDI
trong 5 năm từ 2004 đến 2008, đứng dưới cả Malaysia, Indonesia, Trung Quốc là những
nước trước đây thua kém VN về EDI. Về đại học, nhiều số liệu đáng tin cậy cho thấy sự
tụt hậu rất xa của các đại học của ta so với ngay cả các đại học của Thái Lan hay
Malaysia về nghiên cứu khoa học – tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng đại học.1)
Theo đánh giá của WEF (Diễn đàn Kinh tế Thế giới) đào tạo và giáo dục đại học là một
trong ba lĩnh vực yếu nhất, đáng lo ngại nhất, của Việt Nam. Sự yếu kém giáo dục cũng
được phản ảnh rõ trong việc năng lực cạnh tranh toàn cầu của VN năm 2008 tụt thêm hai
bậc, sau khi đã tụt bốn bậc năm 2007.
1) Phạm Duy Hiển: “Đại học hàng đầu ở Thái Lan và Việt Nam”, tạp chí Tia Sáng số 2,20/1/2007
2
Giáo dục là một hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, cấu trúc tổ chức (bao
gồm các phần tử và các hệ thống con), phương thức vận hành và hiệu quả hoạt động. Nếu
về mỗi yếu tố ấy đều có quá nhiều trục trặc nghiêm trọng kéo dài hàng thập kỷ mà không
khắc phục được, khiến mọi sự điều chỉnh cục bộ theo cơ chế sai-sửa-sai như lâu nay đã
thực hiện đều không cứu vãn nổi, thì tình trạng ấy phải được nhận diện là sự khủng
hoảng.
Nhìn lại hệ thống giáo dục VN, những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ từ lâu và hiện đã
vượt quá xa giới hạn báo động.
Từ chỗ trước đây là sự nghiệp toàn dân, nay giáo dục đã dần dần mất phương hướng,
không còn rõ giáo dục cho ai, vì ai, để làm gì. Học sinh bỏ học nhiều, cơ hội được đi học
đối với con em các gia đình nghèo còn khó, mà cơ hội học được đến nơi đến chốn càng
khó hơn, do nhiều vấn nạn về học phí, sách giáo khoa, học thêm, thi cử, học xong rồi làm
gì, v.v. Trách nhiệm của Nhà Nước đối với giáo dục có xu hướng sút giảm dần, nhường
chỗ cho quan niệm tư nhân hóa cực đoan đang gia tăng theo chiều hướng phủ nhận giáo
dục với tính chất là lợi ích công, muốn biến nó thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận
mua vừa bán theo luật cung cầu của thị trường. Khoảng cách giữa mục tiêu lý thuyết và
thực tiễn thực hiện đang ngày một rộng thêm, đang có nguy cơ đẩy giáo dục xa rời lý
tưởng công bằng, dân chủ, văn minh mà xã hội đang muốn hướng tới.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động giáo dục mất cân đối, rối loạn trầm trọng giữa giáo dục
phổ thông, dạy nghề, cao đẳng, đại học, giữa công lập và tư thục, giữa chuyên tu, tại
chức, đào tạo liên kết, v.v.... tất cả làm thành một hệ thống rối ren không đồng bộ, thiếu
nhất quán, hoạt động phân tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ, thiển cận,
hơn là quan tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài của cộng đồng. Một hệ thống mấy trăm đại
học, cao đẳng, với chất lượng rất thấp, bên cạnh một hệ thống dạy nghề què quặt, trên
nền một hệ thống giáo dục phổ thông cũ kỹ, lạc hậu, hơn hai thập kỷ nay vẫn loay
hoay triền miên với những thí nghiệm tốn kém không hiệu quả, đó là bức tranh tổng
thể của hệ thống giáo dục VN ở thời điểm này.
Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian
học thuộc lòng những điều lạc hậu vô bổ, mặt khác lại quá thực dụng thiển cận, thiên về
ăn xổi mà coi nhẹ những vấn đề có ý nghĩa cơ bản cho cả xã hội và cho từng cá nhân
như: hình thành nhân cách, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng cảm thụ. Coi nhẹ kỹ
năng lao động, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, đức tính trung thực, năng lực sáng tạo,
năng lực tưởng tượng – những đức tính và năng lực thời nào cũng cần nhưng đặc biệt
thời nay càng cần hơn bao giờ hết. Trong khi đó coi trọng bằng cấp và thi cử hơn học,
khiến thi cử và chạy theo bằng cấp lôi cuốn toàn xã hội, gây ra nhiều lãng phí lớn, và
nhiều tiêu cực như bằng giả, bằng dỏm, học giả, v.v, ảnh hưởng rất xấu đến môi trường
văn hóa tinh thần.
Chất lượng đào tạo sút kém một thời gian dài, đặc biệt ở đại học, cao đẳng và dạy nghề,
khiến nhân lực đào tạo ra còn xa mới đáp ứng được đòi hỏi thực tế về cả ngành nghề,
chất lượng và số lượng. Dân trí thấp – hệ quả tất nhiên của giáo dục yếu kém – tác động
3
tiêu cực đến môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn giao thông, gây ra hàng loạt vấn
nạn trên mọi phương diện của đời sống. Tuy có một số thành công bước đầu rất hạn chế
qua các lớp phổ thông chuyên, và các lớp cử nhân “tài năng”, kỹ sư “tài năng” mới ra đời
mấy năm gần đây, nói chung việc bồi dưỡng và sử dụng nhân tài còn ở trình độ cực kỳ
sơ khai, lại thiếu môi trường và chính sách thích hợp, nên không những không thu hút
được nhân tài từ nước ngoài mà cũng không giữ chân được số ít ỏi nhân tài đã may mắn
gây dựng được trong nước. Nạn chảy máu chất xám tuy đã được báo động từ lâu song
chưa được ngăn chặn hữu hiệu, mà chỉ nặng về lặp đi lặp lại những lời hô hào và hứa
hẹn.
Trong khi chất lượng giáo dục sa sút thì lãng phí và tham nhũng khiến chi phí cho giáo
dục tăng cao một cách phi lý, trở thành gánh nặng không chỉ cho ngân sách quốc gia, mà
cho mọi gia đình vì phần đóng góp trực tiếp của dân ước tính lên đến hơn 40% tổng chi
cho giáo dục. Điều đáng lo hơn cả là sự lãng phí đó, dù rất lớn vẫn chưa đáng kể so với
sự lãng phí chất xám gây ra bởi chính sách đào tạo và sử dụng nhân tài hẹp hòi thiển
cận.
Bấy nhiêu vấn nạn tích lũy hàng chục năm, ngày một trầm trọng hơn và đến nay vẫn chưa
thuyên giảm, mặc cho mọi cố gắng khắc phục, là bằng chứng của sự khủng hoảng giáo
dục từ bên trong hệ thống. Không phải chỉ đơn thuần là sự khủng hoảng về quy mô, số
lượng, mà nghiêm trọng hơn, là sự khủng hoảng về đường lối (triết lý), về chất, tiềm ẩn
nguy cơ tha hóa không thể coi thường.
Điều may mắn là vượt lên trên tình hình chung không mấy sáng sủa vẫn có những điểm
sáng nhất định, và trong từng cấp học và từng địa phương đều tự phát có những đơn vị
khá thành công, vẫn còn những con người tràn đầy nhiệt huyết và quyết tâm, chứng tỏ
tiềm năng phát triển giáo dục của đất nước còn lớn.
2. Những sai lầm chủ yếu làm tha hóa giáo dục
Sự khủng hoảng giáo dục trước hết là khủng hoảng về chất, điều đó cũng có nghĩa là giáo
dục không chỉ tụt hậu mà đã đi lạc hướng, trở thành lạc lõng, trong trào lưu chung của
thế giới hiện đại. Đó là hậu quả của nhiều năm phạm những sai lầm quản lý có tính hệ
thống làm tha hóa giáo dục.
Sai lầm đầu tiên tai hại nhất, dẫn đến suy thoái trầm trọng đạo đức trong nhà trường, là
chính sách đối với người thầy dựa trên quan niệm lệch lạc về sứ mạng và vai trò người
thầy trong nền giáo dục hiện đại. Từ chỗ phê phán đúng đắn tư duy lạc hậu trong nhà
trường cũ gán cho thầy quyền uy tuyệt đối, biến giáo dục thành quá trình truyền đạt và
tiếp thu hoàn toàn thụ động, đã dần dần xuất hiện tư duy cực đoan ngược lại, phủ nhận
vai trò then chốt của người thầy đối với chất lượng giáo dục. Với cách hiểu giáo dục thô
sơ, khi thì nhấn mạnh một chiều “học sinh là trung tâm” để hạ thấp vai trò người thầy,
khi khác tôn chương trình, sách giáo khoa lên địa vị “linh hồn giáo dục”, nhận định chất
lượng đại học thấp “không phải do thầy mà do chương trình”, v.v. dẫn đến hoàn toàn xem
thường việc xây dựng đội ngũ thầy giáo theo chuẩn mực chuyên môn và đạo đức hiện
đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng
4
phạm sai lầm lớn. Đặc biệt tệ hại là chính sách lương: trả lương cho thầy, cô giáo dưới
mức sống hợp lý, lấy cớ ngân sách eo hẹp (ban đầu do khó khăn có thật, về sau chỉ là do
tham nhũng và sử dụng ngân sách không hợp lý), buộc thầy, cô phải xoay xở kiếm thêm
thu nhập bằng mọi cách (dạy thêm, làm thêm ngoài giờ, bằng tay trái, đến nỗi hiện tại
cũng không hiếm giảng viên đại học dạy sô trên 30 giờ/tuần). Có thể nói không quá đáng
tất cả những căn bệnh trầm trọng về đạo đức nghề nghiệp: gian dối, tiêu cực, lãng phí,
quan liêu… đã tàn phá giáo dục trong nhiều năm đều có nguồn gốc sâu xa liên quan tới
cái lỗi hệ thống cơ bản này.1*)
Sai lầm thứ hai, biến học tập thành một thứ khổ dịch, là tập trung tất cả việc dạy và học
vào thi cử, nói rõ hơn là thay vì thi, kiểm tra thường xuyên nghiêm túc từng học phần để
bảo đảm kết quả học tập vững chắc thì dồn hết cố gắng vào các kỳ thi tốt nghiệp, thi
“quốc gia” nặng nề, căng thẳng, rất hình thức mà một thời gian dài thiếu nghiêm túc, sinh
ra hội chứng thi rất đặc biệt của giáo dục Việt Nam: gần thi mới lo học, học đối phó, học
nhồi nhét chỉ cốt để thi, thi cái gì học cái nấy, thi thế nào học thế ấy, chủ yếu là học thuộc
lòng các loại bài mẫu, các đáp án mẫu. Trước đây thi theo bộ đề thi cho sẵn, nay, sau
nhiều năm đã bỏ, bộ đề thi biến tướng thành các bảng “cấu trúc đề thi”. Đem việc học
phụ thuộc vào việc thi, khiến thi chứ không phải học trở thành hoạt động giáo dục chủ
yếu, đó là tàn tích lạc hậu của lối học từ chương khoa cử, một thời đã bị lên án nhưng dần
dần được khôi phục lại. Trên thì Bộ GD-ĐT có cả một cơ quan đông đúc (nay là Cục
khảo thí) chuyên nghiên cứu qui chế thi, ra đề thi, tổ chức chấm thi, thanh tra, giám sát
thi, mỗi năm một kiểu (năm 2009 càng rắc rối phức tạp hơn mọi năm trước), dưới thì các
lò luyện thi, các lớp học thêm, dạy thêm, các máy sao chụp hoạt động hết công suất để
phục vụ học sinh đi thi. Từ đó đẻ ra những dịch vụ kỳ quái hiếm thấy trên thế giới: sản
xuất “phao” thi, thi thuê, viết luận án thuê, làm bằng giả, mua bằng thật nhưng học giả,
v.v. Cho nên chừng nào còn duy trì cái khổ dịch thi cử này thì kinh tế còn phải trả giá
nặng nề cho sự tụt hậu của giáo dục. Nếu tính hết mọi khoản chi trực tiếp và gián tiếp
phục vụ cho các kỳ thi và mọi thiệt hại (kể cả về tâm lý) phát sinh do thi cử kiểu này, thì
hậu quả xấu rất lơn (riêng về tiền có thể đến cả chục nghìn tỉ đồng mỗi mùa thi), bình
thường đã khó chấp nhận mà trong bối cảnh khó khăn kinh tế càng không thể hiểu nổi.
Trung Quốc hay Hàn Quốc, thi còn nhẹ nhàng hơn ta mà họ đã phê phán cái “địa ngục thi
cử” của họ, còn thi cử như ta không biết phải gọi là cái địa ngục gì.
Sai lầm thứ ba, dẫn đến rối loạn vượt quá tầm kiểm soát, là chạy theo số lượng, hy sinh
chất lượng, bất chấp mọi chuẩn mực, thông lệ và kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt trong
lĩnh vực quản lý đại học (đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ, công nhận GS, PGS, phát triển đại học)
tình trạng phát triển bừa bãi, dối trá, diễn ra hết sức nghiêm trọng và kéo dài gần hai thập
kỷ. Trong thời đại toàn cầu hóa, muốn không bị loại khỏi cuộc cạnh tranh, ít nhất phải
hiểu biết và tôn trọng luật chơi, trước hết là các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Thế
nhưng từ các chuẩn mực thông thường nhất về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, cho
1*) Nói thế không có nghĩa chỉ cần giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập thì mọi việc sẽ ổn, mà chỉ có nghĩa:
không làm việc này thì không khắc phục được những tiêu cực khác, làm việc này là điều kiện cần, sine qua
non, nhưng đương nhiên không đủ. Sự thật là cái nghịch lý này đã kéo theo nhiều cái tiêu cực khác, rồi đến
lượt các tiêu cực này dần dần có con đường phát triển riêng, có phần phụ thuộc có phần độc lập cái nghịch
lý kia, vì đã trở thành thói quen khó bỏ. Đó là chưa kể ảnh hưởng của nhiều tiêu cực trong hệ thống lớn (xã
hội). Cho nên, phải sửa chữa nhiều lỗi trong hệ thống lớn (xã hội) nữa, và đi đôi với phá, phải có xây thì
dần dần mới ổn. Tuy nhiên, trong phạm vi giáo dục, đây đúng là một lỗi hệ thống cơ bản.
5
đến việc tuyển chọn, đánh giá GS, PGS, tuyển sinh thạc sĩ, tiến sĩ, đánh giá công trinh
nghiên cứu khoa học, đánh giá các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ, v.v. phần lớn đều không theo
những chuẩn mực quốc tế mà dựa vào những tiêu chí tự sáng tác, rất thấp và khác so với
quốc tế, thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học, thiếu minh bạch, dễ bị lợi dụng mưu lợi
ích riêng cho từng nhóm ích kỷ. Do đó trong một thời gian ngắn đã xuất hiện hàng vạn
tiến sĩ và hàng nghìn GS, PGS, trong đó một tỉ lệ khá lớn (không dưới 2/3) dưới chuẩn,
thậm chí hữu danh vô thực. Đáng lo nhất là với phong trào đại học hóa ồ ạt, chỉ trong
vòng vài năm đã ra đời hàng trăm đại học, cao đẳng, mà nhiều trường trong số đó chẳng
có lấy một giảng viên đúng chuẩn. Gần đây, do yêu cầu bức bách hội nhập quốc tế và
cạnh tranh đã nảy sinh nhu cầu xây dựng những đại học đẳng cấp quốc tế. Tuy đây là nhu
cầu hoàn toàn hợp lý, nhiều người vẫn lo rằng nếu không cảnh giác với bệnh thành tích
cố hữu thì cái tâm lý nôn nóng có thể dẫn tới một lần nữa chạy theo số lượng và danh
hão, tiêu phí nhiều tiền để mua “danh” nhiều hơn là cầu “thực.” 2) Sự lo lắng không phải
không có cơ sở khi được biết Chính Phủ đã chấp thuận cho Bộ GD-ĐT vay 400 triệu
USD từ WB để xây dựng 4 trường đại học chất lượng cao đến năm 2020 thuộc top 200
đại học tốt nhất thế giới – trong khi đó quan niệm thế nào là đại học đẳng cấp quốc tế hãy
còn rất mơ hồ và bất cập.
Hậu quả tổng hợp của các sai lầm nêu trên là một bộ phận giáo dục dần dần biến chất,
tha hóa, xa rời những giá trị cao quý còn sót lại từ quá khứ. Cái chất thực sự, cái phẩm
chất giáo dục, chẳng còn mấy trong nhiều nhà trường – nơi đạo đức băng hoại, nơi học
tập trở thành khổ dịch, nơi chẳng còn phép tắc, trật tự. Trường không ra trường, thầy
không ra thầy, lời buộc tội nặng nề đó tuy chỉ đúng với một bộ phận của giáo dục, nhưng
cũng đủ để gióng lên hồi chuông báo động đỏ cho toàn ngành.
(con tiep)
No comments:
Post a Comment