Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục IRED
Chúng ta đang sống trong một cuộc cách mạng số. Cuộc cách
mạng này đang và sẽ làm thay đổi một cách căn cơ đời sống của xã hội, của từng
con người, của các mối quan hệ giữa các cá nhân một cách nhanh chóng. Nó được Hervé Le Crosnier - Đại học Caen (Pháp) ví như một ngọn sóng cao, mà tất cả
chúng ta ở trên đó, ngọn sóng này vừa mới nổi lên và sẽ đưa tất cả chúng ta đi
rất xa. Cách mạng số tác động và làm thay đổi mọi lĩnh vực từ kinh tế, luật
pháp, chính trị, truyền thông… và đương nhiên là có cả giáo dục và công tác in
ấn xuất bản. Lối sống, lối ứng xử, phương
cách làm việc mới được thiết lập, tạo ra những nét văn hóa
mới gọi là “Văn hóa số”[[1]]
(culture numerique hay cyberculture).
Cách mạng số tạo ra một xã hội thông tin, một xã hội tri thức[[2]]
mà giáo dục đóng vai trò chính yếu trong
« lối vào » (accès) xã hội này. Bài tham luận này xin chia sẻ
một vài suy nghĩ liên quan đến vai trò của giáo dục, của sách (hay nói đúng hơn
là các ấn phẩm) trong bối cảnh « văn hóa số » hiện
nay. Liệu Việt Nam, một nước nghèo, có thể tận dụng cuộc cách mạng này trong
công cuộc phát triển đất nước nói chung và chấn hưng giáo dục nói riêng
không?
Văn hóa
số và sách
Kỹ thuật số làm đảo lộn tất cả quy trình in ấn phát hành,
cũng như làm thay đổi cách mà con người tạo ra kiến thức. Nếu trước đây mô hình
của việc phát hành một cuốn sách thường là:
Tác giả => Nhà xuất
bản => marketing/ họp báo giới thiệu/ liên hệ nhà sách => Phát hành =>
Phân phối/ nhà sách => người đọc.
Quy trình truyền thống này có nguy cơ bị
phá vỡ, khuynh hướng ngày nay là con đường đi từ tác giả đến người đọc là trực tiếp. Với các
phương tiện liên lạc hiện đại, với website, blog, các mạng xã hội, những ý tưởng của tác giả đến
trực tiếp với người đọc có thể trong giây lát và nhận lại những phản hồi
của bạn đọc cũng trong giây lát. Ví dụ, một nhà văn ngày nay có thể « xuất
bản » một sáng tác mới trên blog hoặc website riêng,
bài viết của tác giả ngay lập tức đến với hàng ngàn độc giả mà không cần phải
thông qua các khâu xuất bản, phát hành có khi đến mấy năm mới có thể đến với độc giả. Đây đang là một thực tế đang diễn ra
và có lẽ là khuynh hướng chính trong tương lai.
Ngày nay, nhiều loại kiến thức mới được
hình thành, hoàn thiện thông qua những tương
tác trao đổi qua lại trên các diễn đàn ảo. Một bài viết xuất bản, sau đó nhận được nhiều bình luận liên quan, các bình luận
viên có thể góp phần phản biện cho các ý tưởng trong bài, bổ sung những
thiếu sót, gợi mở những suy nghĩ mới, những giải pháp mới, những thông tin mới.
Đây là một trong những phương cách tạo ra kiến thức mới một cách phong phú tiềm
tàng mà trước đây chúng ta chỉ có thể có những tương tác này thông qua những
hoạt động học thuật như hội thảo, bàn tròn rất tốn kém và giới hạn số người
tham gia.
Thư viện - tra cứu
Dân gian ngày nay có câu « Dân ta
phải biết sử ta, nếu mà không biết thì tra gun gờ » (google), quả thật, google như một
ông tiên, gỡ bí cho chúng ta nhiều chuyện từ cuộc sống thường ngày đến học
thuật nếu ta biết hỏi nó. Dự án « google book » đã có hàng triệu đầu sách được số hóa
gồm đủ chủng loại. Tôi đã thử đánh từ khóa « culture numérique » trên google book,
kết quả sau 0,41 giây, cho ra 250 000 tài liệu liên quan; và từ khóa
« cyberculture », cho ra 72 000 tài liệu sau
0,30 giây tìm kiếm. Đây đúng là một phép lạ mà cách đây vài chục năm,
chúng ta không thể tượng tượng được. Cái mà tôi muốn nhấn mạnh, là google chẳng
phân biệt quốc gia, giàu nghèo, vùng địa lý, ở đâu nối mạng là ở đó có thể tiếp
cận được các tài liệu.
Tương tự như google book, Thư viện Quốc gia Pháp cũng đang có
dự án số hóa hằng triệu cuốn sách để phục vụ cộng đồng, tất
cả các loại thư viện, (thư viện quốc gia, thư viện địa phương, thư
viện các trường đại học, các viện nghiên cứu) ở các nước phát triển đang trên đường số hóa các
nguồn tài liệu của mình, các báo, tạp chí khoa học cũng đang chuyển dần
qua phiên bản số… Như vậy, hiện tại và trong
tương lai, chúng ta có thể ngồi bất kỳ ngõ ngách nào trên thế giới cũng có thể
tiếp cận, mua hoặc mượn các tài liệu để phục vụ cho việc học hành, nghiên cứu
của chúng ta. Ngày nay tôi có thể ngồi ở IRED nhưng vẫn mượn sách, tạp chí của Đại học Nantes - Pháp, tôi có thể bỏ hàng ngàn tài
liệu trong túi của của mình với một
USB. Đây là một cơ hội tốt cho các nước nghèo, một cơ hội mà trước đây
có mơ cũng không mơ tới.
Trong Báo cáo của UNESCO năm 2005
có tựa đề « Vers les sociétés du savoir » đã viết: « … Xây dựng
một hệ thống toàn cầu các xã hội tri thức, với ước vọng các xã hội này là nguồn lực phát triển cho tất cả, và nhất là các nước
nghèo » (tr. 27). Tổ chức này của
Liên Hiệp Quốc kêu gọi xem tri thức là « tài sản công », mà tất cả
mọi cá nhân và xã hội đều có thể tiếp cận nhằm phục vụ một lý tưởng cao cả là
phát triển các xã hội, nâng cao nhân phẩm, tạo ra sự công bằng, dân chủ và tính
liên đới xã hội. UNESCO kêu gọi các nước
nghèo tận dụng cuộc cách mạng số này để
xây dựng cho mình xã hội tri thức, bởi tin rằng tri thức sẽ là nguồn lực phát
triển các mặt còn lại.
Việt Nam là một nước nghèo, nghèo
cả vật chất, cả văn hóa và các thành tựu khoa học, thế nhưng thời thế đã cho phép chúng ta
kết nối với kho tàng tri thức vô giá
của nhân loại, tạo ra một cơ hội to lớn để chúng ta có thể
« đi tắt đón đầu ». Với giáo dục, nhất là giáo dục bậc cao, sách
vở, chữ nghĩa, tri thức đóng vai trò sống còn, tựa như vai trò của lương thực
đối với cơ thể của chúng ta. Một trường đại
học tỏ ra bất cần, không chú trọng đến nghiên cứu, xuất bản, thư viện, thì cũng
giống như nhà buôn tuyên bố không cần tiền
bạc, vốn liếng gì. Một hình ảnh so sánh có thể khập khiễng, nhưng để nói lên vai trò tối
quan trọng của sách và các ấn phẩm khoa
học trong đời sống học thuật. Nếu như không có cuộc cách mạng số, chúng ta
có cố gắng tới đâu cũng khó có thể theo kịp
các nước phát triển với những kho tàng tri
thức đang nằm trong những thư viện, trung tâm lưu trữ và
nằm ngay trong từng công dân của đất nước họ.
Cuộc cách
mạng số đang và sẽ xóa bớt khoảng cách giàu nghèo về mặt
tri thức này. Các nước nghèo, các công dân của các nước nghèo nhờ cách
mạng số có cơ hội tiếp cận kho tàng đồ sộ
không những chỉ một nước mà cả thế giới. Nghĩa là ngày nay, chúng ta
không còn lo đói về mặt tri thức, nhưng chỉ lo chúng ta không muốn, không được phép, không có khả năng (ngoại ngữ) hay
không biết cách để khai thác. Làm thế nào để có thể tận dụng tốt cơ hội
này để thúc đẩy sự phát triển? Chúng ta phải đào tạo mẫu người công dân nào
trong thời đại văn hóa số này? Phải tạo ra một môi trường
thế nào để xã hội tri thức có thể phát triển?
Văn hóa số và xu thế
trong giáo dục
E. Durkheim
đã nói, giáo dục là con đường đưa cá thể hội nhập vào xã hội. Ngày nay, chúng ta có thể nói một cách cụ thể,
giáo dục là con đường đưa cá thể hội nhập vào xã hội với văn hóa
số. Cách mạng số tác động trực tiếp lên mọi khâu của giáo dục từ triết lý, cách
dạy, cách học, nội dung chương trình, đến cách thức tổ chức hành chính sư phạm
trong hệ thống, trong từng trường học. Công cuộc « Chấn hưng giáo dục » mà chúng ta đặt ra hôm nay không thể nằm
ngoài ngọn sóng của cách mạng số này. Dưới đây tôi xin phép nêu lên vài
suy nghĩ sơ lược về một xu thế mới trong giáo dục trong bối cảnh văn hóa số hôm nay.
Cách dạy và học: Cuộc cách mạng số tạo ra một sự bùng nổ thông tin và kiến thức, khối
lượng kiến thức của nhân loại tăng lên một cách nhanh
chóng, và cũng có thể bị bỏ qua một cách
chóng vách. Với một xã hội như vậy, nhà trường không thể là nơi truyền thụ kiến thức, nhưng phải là nơi chỉ
cho học sinh làm thể nào để tiếp cận, chọn
lựa và góp phần tạo ra kiến thức. Không những chỉ học một số năm ở nhà trường, nhưng chuẩn bị cho học sinh tinh thần
và phương pháp tự học, tự đào tạo suốt đời. Nghĩa là nhà trường, nhất là
trường đại học là nơi trang bị phương pháp chứ
không thể là nơi dạy kiến thức. Nếu chúng ta chủ trương truyền thụ kiến thức,
chúng ta sẽ chẳng biết truyền thụ gì, truyền
thụ bao nhiêu giữa biển trời mênh mông thông tin vốn thay đổi rất nhanh.
Nếu sinh viên phải học tập trong một khung chương
trình và nội dung đào tạo được định sẵn và đóng kín nào đó, những kiến thức
họ nhận được có nguy cơ bị lạc hậu ngay khi chưa ra trường. Cách đây mấy năm,
tôi đã phỏng vấn một cựu sinh viên khoa triết, anh này tỏ ra thất vọng vì cho
rằng, sau bốn năm học đại học ra trường, mình bị bạn bè không học đại học bỏ
xa, không những về đời sống kinh tế mà cả về mặt tư duy và khối lượng kiến
thức. Đơn giản vì trong bốn năm, anh này bị bó buộc học những lý thuyết sáo mòn
chẳng liên quan gì đến một xã hội đang biến đổi từng ngày, trong khi các bạn
anh lại được tự do cập nhật với những trợ giúp đắc lực của kỹ thuật số.
Toàn cầu hóa và nội dung
giảng dạy: Cách mạng số đã thúc đẩy mạnh mẽ
tiến trình toàn cầu hóa, nơi
đó biên giới quốc gia bị phai mờ. Mạng internet là toàn cầu, chúng ta nối mạng là chúng ta kết nối với toàn
cầu. Thông tin lưu chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác khác chỉ
tính bằng giây, vượt qua mọi thứ biên giới
(mặc dầu vẫn còn tường lửa). Như vậy quốc tế hóa trong giáo
dục, đặc biệt là giáo dục bậc cao là một khuynh hướng khách quan, không
phụ thuộc vào việc chúng ta muốn hay không,
mà là con đường đi chung của nhân loại. Trừ trường hợp chúng ta rút phích cắm ra khỏi thế giới như trường
hợp Bắc Hàn, nhưng làm như vậy, chúng
ta sẽ không thể phát triển, và cũng chẳng có thể tồn tại lâu dài. Từ đặc điểm này, mặc dầu không xem nhẹ các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc, nhưng chúng ta phải
trang bị cho người học tinh thần và khả năng của những « công dân toàn cầu
», để các em có thể dễ dàng thích ứng, hội nhập với thế giới lao động ngày càng
không có biên giới và hay thay đổi ngày nay.
Thiết kế nội
dung chương trình giảng dạy phải phù hợp với khuynh hướng toàn cầu hóa,
Edgar Morin (1999), nhà triết học giáo dục hàng đầu của Pháp trong « Les sept savoirs
nécessaires à l’éducation du futur » đã đề nghị bảy nội dung giảng dạy trong giáo dục tương lai, trong đó nhấn
mạnh đến làm thế nào để người học nắm những nguyên lý tạo ra kiến thức,
hiểu được những khiếm khuyết, sự thiếu chắc chắn của kiến thức, trang bị cho
người học khả năng thấu hiểu người khác, tinh thần chấp nhận sự khác biệt, lối
ứng xử, cách điều tiết giữa cá nhân và xã hội thông
qua các nguyên tắc dân chủ, cách thức mà nhân loại đã sống chung với nhau
thông qua lịch sử của mình, cũng như những khả năng để đối phó với những điều
thiếu chắc chắn, bất ngờ có thể xảy ra.
Thị trường học đường[[3]], nhất
là thị trường giáo dục đại học đang dần trở nên một thị trường toàn
cầu, các quốc gia, các trường đại học nổi tiếng đang tung ra những chiến lược
thu hút giáo sư và sinh viên trên toàn thế giới. Chính sách tuyển giáo sư và các nhà nghiên cứu hiện nay tại các
nước phát triển đã không còn phân biệt quốc tịch. Một giáo sư Trung Quốc
đang làm hiệu trưởng của một đại học Anh, các giáo sư và nhà nghiên cứu Việt
Nam vẫn có thể làm việc tại một nước nào đó trên thế giới ngày nay là chuyện
bình thường.
Toàn cầu hóa tạo ra một sự di động dễ dàng, nơi nào có chính sách đãi
ngộ hấp dẫn, có môi trường làm việc tốt, nơi đó sẽ thu hút chất xám.
Tôi đang đọc cuốn sách có tựa đề « Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại » của Ben
Wildavsky (2010), tác giả đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh về giáo dục
đại học trên thế giới, nơi đó đang diễn ra một cuộc cạnh tranh lớn về chất xám,
các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc, các nước châu Âu, Ả Rập, Nhật, Trung Quốc,
Singapore..., đang tung ra những chiến lược
nhằm thu hút các nhà nghiên cứu tên tuổi, các giảng viên và sinh viên giỏi
đến với mình. Điều này không những mang lại
lợi nhuận cho các nước giàu mà còn mang lại hàm lượng chất xám hết sức
có ý nghĩa trong thời đại kinh tế tri thức ngày nay. Dòng chảy chất xám đang
chảy mạnh từ Đông sang Tây, từ những nước
nghèo sang những nước giàu. Việt Nam chúng ta đang là một thị trường của họ.
Trào lưu du học mà có nhiều người miêu tả như
là hiện tượng “tị nạn giáo dục” là biểu hiện của việc chảy máu chất xám
này.
Thị trường
học đường có lẽ đang là mô hình cải cách giáo dục trên thế giới ngày nay, khuynh
hướng này đặt quyền chọn lựa trường lớp, chọn nội dung chương trình học tập, thậm chí chọn cả thầy của người học và phụ
huynh làm trung tâm, làm đòn bẩy để tạo ra sự cạnh tranh giữa các
trường, và từ đó nâng cao chất lượng giảng
dạy, trong khi Nhà nước vẫn có thể đảm bảo tính công bằng cơ hội, quyền học hành của người dân thông các chính sách
tài chính, điều tiết thuế má. Mô
hình này cũng buộc Nhà nước phải tôn trọng quyền tự chủ của cơ sở đào tạo, của
các giáo viên. Quan hệ giữa các tác nhân chính như Nhà nước, nhà trường, người
dạy và người học và phụ huynh là quan hệ bình đẳng thông qua cơ chế thương
lượng và điều tiết dựa trên nhu cầu của xã hội, chứ không phải là những áp đặt.
Đây là mô hình đã tồn tại tại các nước ảnh hưởng của lý thuyết kinh tế
« tân tự do », nhưng cũng đang là khuynh hướng cải cách tại các nước châu
Âu vốn có truyền thống đề cao vai trò của Nhà nước trong giáo dục.
Văn hóa số và dân chủ: Trong báo cáo
của UNESCO đã dẫn ở trên xác định rõ, muốn xây dựng một xã hội tri thức làm nền
tảng cho sự phát triển, cần phải có những điều kiện căn bản đó là tự do
tiếp cận tri thức, thông tin và tự do thông tin. Chúng ta sẽ không bao giờ xây
dựng được một xã hội tri thức khi sự lưu chuyển thông tin và tri thức bị ngăn
cấm, khi tự do học thuật bị xâm phạm, khi quyền ngôn luận, quyền phát đi thông
tin và tri thức của các cá nhân bị cản trở.
Liên quan đến
giáo dục, mô hình thị trường học đường mà tôi vừa đề cập không những có thể kích thích sự cạnh tranh giữa các trường, tạo động lực
phát triển, nhưng nó là một sự thể hiện của dân chủ hóa
trong giáo dục. Một mô hình đặt người học
làm trung tâm trong phương thức quản lý và trong các quan hệ sư phạm.
Người học được xem là một tác nhân trung tâm, có thể chủ động phối hợp với giáo viên để xây dựng nội dung và chương trình học
tập, đem ra những nguyên tắc, nội quy
chung, chứ không phải là bên thụ động chịu sự nhồi nhét những thứ đã có sẵn
bất chấp người học có muốn hay không như tại Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Cách mạng số, văn hóa số là những đề tài hiện đại nhưng không còn quá mới. Những điều tôi vừa đề cập nếu cách đây 30 năm là
chuyện viễn tưởng, nhưng ngày nay đã là những sự kiện có thật đang diễn
ra và đang tác động lên tất cả chúng ta. Hình như chúng ta đang chạy theo trào
lưu một cách bị động mà chưa có những nghiên cứu nghiêm túc về những tác động
của cuộc cách mạng này lên đời sống xã hội nói chung và đời sống học thuật nói
riêng. Bằng chứng là, khi tôi sử dụng từ
tiếng Việt « văn hóa số » để tìm kiếm các công
trình, bài viết liên quan thì hầu như tìm
không ra, trong khi sử dụng từ này bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thì lại rất nhiều như số liệu đã trích dẫn ở trên.
Hơn bất kỳ lĩnh vực nào, giáo dục
và công tác phát hành xuất bản sách đang chịu tác
động rất sâu sắc bởi cuộc cách mạng số. Văn hóa số không
triệt tiêu « văn hóa giấy » vốn đã gắn liền với con người, bám sâu vào tập tính
của chúng ta hằng nhiều thế kỷ nay, nhưng nó bổ
sung một cách tích cực, làm phong phú và đặc biệt tạo cho những nước
nghèo cơ hội vươn lên về mặt văn hóa, giáo dục./.
N.K.T.
[1] Văn hóa số ám chỉ phương cách mà con người sống, làm
việc, ứng xử với nhau dưới sự tác động của kỹ thuật số, cũng như những biến đổi
về mốt sống của từng cá nhân và xã hội dưới sự tác động của kỹ thuật
này. Văn hóa số là tựa đề của hàng chục ngàn ấn phẩm, là tên gọi của nhiều công
trình nghiên cứu, là tên của một môn học được giảng dạy tại bậc đại học mà
chúng ta có thể xem bằng vidio tại địa chỉ: https://ensweb.users.info.unicaen.fr/syllabus/index_cult-num.php.
Ở đây chúng tôi không đào sâu về mặt khái niệm văn hóa số theo nghĩa rộng,
nhưng sẽ nói về nó theo nghĩa hẹp trong mối tương quan với chủ đề hội thảo
« Sách và chấn hưng giáo dục ».
Nghĩa là nói về những tác động, những biến đổi, những khuynh hướng trong giáo dục hiện đại cũng như công
tác xuất bản, phát hành dưới sự tác động của kỹ thuật số.
[2] UNESCO khuyến cáo phân biệt hai khái niệm “xã hội thông
tin” (société de l’information) và “xã hội tri thức” (société des savoirs). Trong xã hội thông tin,
thông tin được xem như một thứ hàng hóa có một giá trị nào đó, mà người
ta có thể trao đổi, mua bán, lưu trữ, vận chuyển,… trong khi khái niệm xã hội
tri thức mang tính nhân bản hơn, nó phản ánh
và nói lên những kỳ vọng của con người, tạo điều kiện cho sự công bằng, công
lý, dân chủ và hòa bình. Trong ý nghĩa này chúng ta bàn về giáo dục (Xem
Cornu Bernard. 2007. “Enseigner et apprendre
dans la société du savoir: enjeux et questions...”. MathemaTICE, n. 5, mai - 2007)
[3] Thị trường học
đường (marché scolaire) là tên gọi của một lý thuyết trong nghiên cứu về giáo
dục, nhưng cũng là tên gọi của một mô hình tổ chức và quản lý giáo dục, mà chúng
tôi thấy đang ngày càng trở thành khuynh hướng cải cách giáo dục trên thế giới. Thị trường học
đường không đồng nghĩa với “thương mại hóa giáo dục” vốn xem giáo dục như một
loại hàng hóa có thể trao qua đổi lại trên thị trường như trong lĩnh vực kinh
tế. Chúng tôi đã có hai bài viết liên quan đến đề tài này, xin xem Nguyễn Khánh
Trung. (2011). « Khái niệm thị trường giáo dục và vai trò các tác
nhân ». Tia Sáng Oneline: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=4776.
Lên mạng ngày 29-12-2011. và Nguyễn Khánh Trung. (2012). « Gia đình và thị trường giáo dục ». Tạp chí Tia Sáng, số 03 - 05-2-2012.
Tr. 39 - 41.
Tài liệu tham khảo
1.
Hervé Le Crosnier. (2010). Loạt bài giảng
về Văn hóa số, có thể xem video
tại địa chỉ: https://ensweb.users.info.unicaen.fr/syllabus/index_cult-num.php.
2.
Cornu Bernard. (2007). “Enseigner et
apprendre dans la société du savoir: enjeux et questions...”. MathemaTICE, số. 5, tháng 5 - 2007.
3. Rapport
mondial de l‘UNESCO. « Vers les sociétés du savoir », 2005.
4.
Edgar Morin.
(1999). « Les sept savoirs nécessaires à l’éducation du futur ». Paris: Le Seuil.
5.
Xem Georges Felouzis. (2011). « Les
marchés scolaires et l’éducation comparée ». Éducation comparée. Revue de recherche internationale et
comparative en education. Nouvelle série. Số 6/ 2011, tr. 10 -
11.
6.
Ben
Wildavsky. (2010). « Cuộc cạnh tranh chất xám vĩ đại » (dịch sang tiếng Việt bởi Tô Diệu Lan). Hà Nội: NXB. Trí thức
và Đại học Hoa Sen. 2012.
No comments:
Post a Comment