Michael Young, Bringing
knowledge back in: from social constructivism to social realism in the
sociology of education (Giành lại tri thức: từ cách tiếp cận kiến
tạo xã hội tới cách tiếp cận duy thực xã hội trong ngành xã hội học giáo dục). London, Routledge, 2008, xx + 247 pp., £30 (bìa cứng),
ISBN-10: 0-415-32121-2.
Mở Đầu
Có một thực tế là
hiện nay trong khi các quốc gia trên thế giới đang hô hào hướng tới một “xã hội
tri thức”, thì một cách vô tình hay hữu ý, bản thân khái niệm tri thức lại bị bỏ
qua trong các công trình nghiên cứu giáo dục và trong việc làm các chính sách
giáo dục. Một loạt câu hỏi liên quan đến khái niệm tri thức như, Nhà trường
cần cung cấp cho người học tri thức gì? Bản chất của các tri thức đó là gì?
Chúng được tổ chức, đổi mới, và bổ sung
dựa trên nguyên lý nào trong chương trình học?
Đây là những câu hỏi
không hề đơn giản xoay quanh lý thuyết và thực tiễn xây dựng các chương trình học.
Người đặt ra câu hỏi này, đồng thời cũng chính là người cất công góp phần đi
tìm câu trả lời là Michael Young, giáo sư ngành xã hội học giáo dục từ Học Viện
Giáo Dục, Đại Học London, Anh Quốc, đồng thời là một trong những lý thuyết gia
tiên phong về chương trình học. Đem ánh sáng từ xã hội học tri thức cùng kết quả
nghiên cứu mới nhất trong trong ngành, được kết tinh trong trào lưu “duy thực
xã hội” (social realism) mà ông là một trong những người chủ trương, những luận
giải của ông đã góp phần xác định rõ cái cốt lõi mà một chương trình học cần hướng
tới.
Bài viết này tóm tắt
tư tưởng về cách tiếp cận duy thực xã hội đối với chương trình học trong cuốn
sách của tác giả nhan đề “Giành lại tri thức: từ cách tiếp cận kiến tạo xã hội
tới cách tiếp cận duy thực xã hội trong ngành xã hội học giáo dục”. Bài viết nhấn
mạnh lý do vì sao cách tiếp cận duy thực xã hội ra đời, cơ sở nào nó giúp đem lại
một cách giải quyết cho những vấn đề về chương trình học hiện nay ra sao, và một
số ý nghĩa của nó đối với giáo dục.
Nội dung chính của cuốn sách
Cuốn sách được chia
làm ba phần. Phần đầu tiên là các vấn đề lý thuyết, tiếp theo là các nghiên cứu
thực tiễn và cuối cùng là những hướng đi mới trong cách tiếp cận duy thực xã hội.
Trong phần phân
tích lý thuyết, Young vạch ra những sai lầm về bản chất trong hai quan điểm bảo
thủ và thực dụng về tri thức đằng sau
các chính sách giáo dục hiện nay, đồng thời chỉ ra những sai lầm trong những
phê phán dựa trên cách tiếp cận kiến tạo luận xã hội (social
constructivism) về tri thức của những nhà nghiên cứu xã hội học giáo dục theo
trường phái hậu hiện đại khởi nguồn từ trào lưu “Tân Xã Hội Học Giáo Dục” (New
Sociology of Education) từ những năm đầu
1970. Để đưa ra giải pháp cho những sai lầm trong quan điểm kiến tạo luận xã hội,
Young khám phác lại giá trị của của cách tiếp cận duy thực xã hội
(social realism) về tri thức vốn được manh nha từ nghiên cứu của Emile
Durkheim, cha đẻ của ngành xã hội học. Ở phần 2, tác giả dựa trên cơ sở lý thuyết
ở phần 1 để phân tích những kinh nghiệm giáo dục thực tiễn, như sự phân chia giữa
giáo dục hàn lâm (giáo dục để vào đại học) và giáo dục hướng nghiệp (giáo dục để
đi học nghề); cũng ở phần thứ hai tác giả cung cấp nhiều dữ liệu liên quan đến
chính sách chương trình học ở Anh và vấn đề đánh giá kết quả học theo bằng cấp ở
Nam Phi. Trong phần cuối gói gọn trong một chương viết chung với Muller, Young
khẳng định tầm quan trọng của một chương trình học lấy cam kết với cái thực,
cái khách quan làm cơ sở. Dựa vào thành tựu cũng như chỉ ra những thiếu
sót trong nghiên cứu của Emile Durkheim và người đi sau là Basil Bernstein về vấn
đề nhận thức luận và tri thức trong giáo dục, Young và Muller phân tích những
cơ sở cho tính khách quan của tri thức theo lập trường duy thực xã hội đồng thời
đề ra hướng đi mới cho bước phát triển tiếp theo.
Bế tắc nhận thức luận về chương trình học
Theo Young, chỉ tới
những năm 1970, vấn đề về tri thức trong chương trình học mới được các nhà xã hội
học giáo dục và các nhà nghiên cứu quan tâm, khởi nguồn từ trào lưu “Tân Xã Hội
Học Giáo Dục”. Nền tảng nhận thức luận của những nghiên cứu hoặc
cách tiếp cận về tri thức theo trào lưu này là kiến tạo luận xã hội,
nhằm vạch ra những sai lầm đồng thời là sự phủ nhận đối với tư duy thực
chứng luận về tri thức trong chương trình học vốn thống trị nền giáo dục
các nước châu Âu trong vài thế kỉ trước đó. Tuy nhiên, cùng với sự nở rộ của tư
tưởng hậu hiện đại và ảnh hưởng của nó tới ngành xã hội học giáo dục, các
nghiên cứu phê phán về chương trình học dựa trên tư duy kiến tạo luận xã hội hậu
hiện đại đã bộc lộ những sai lầm nghiêm trọng và gây ra một cuộc khủng hoảng lý
thuyết về chương trình học.
Chủ nghĩa thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng (positivism) là cơ sở nhận thức luận về tri
thức thống trị giới khoa học châu Âu suốt hơn 300 năm kể từ thời Descartes. Thực
chứng luận thừa nhận có chân lý khách quan độc lập bên ngoài con người (một yếu
tố mà các triết gia gọi là “duy thực”), và con người có thể dùng tri thức để hiểu
về chân lý đó một cách chắc chắn tuyệt đối. Tri thức được coi là một khối cố định,
phổ quát và không đổi theo thời gian. Những gì một khi được khám phá ra là tri
thức thì sẽ được coi là thiêng liêng, như một viên ngọc quý trong một hòm châu
báu tri thức được tích lũy theo thời gian.
Chủ nghĩa kiến tạo
xã hội
Chủ nghĩa kiến tạo
luận xã hội (social constructivism) là một phản đề đối với quan điểm thực chứng
luận về tri thức. Theo Young, cốt lõi của
tư tưởng kiến tạo luận xã hội là ở chỗ nó coi bản thân hiện thực là một kiến tạo
xã hội, và theo đó có tính lịch sử, tức là nó không bất biến, nó biến đổi theo
thời gian – theo lịch sử. Từ đó, ta có thể suy ra rằng mọi tri thức – tư tưởng,
niềm tin, khoa học hay môn học – về cơ bản, nhìn từ quan điểm xã hội học, đều bị
cào bằng như nhau. Young cho rằng quan niệm như vậy có nhận thức luận dựa trên
sự “phi-biệt hóa” về tri thức (de-differentiation of knowledge). Chẳng hạn,
với John Dewey, một triết gia hành dụng học, tri thức và kinh nghiệm chẳng qua
chỉ là một. Mặt khác, cũng do nền tảng kiến tạo xã hội của tri thức theo quan
điểm này mà mọi tri thức đều là sự thể hiện của các mối quan tâm xã hội và do
đó đều đến từ một lập trường nào đó. Với các nhà xã hội học giáo dục chịu ảnh
hưởng của tư tưởng kiến tạo luận xã hội, chương trình học không gì hơn là một
công cụ nhằm khẳng định lập trường hay ưu thế của một vài nhóm người này so với
những nhóm người khác. Đi theo quan điểm
này, một hệ lụy hiển nhiên là sự hoài nghi về tính khách quan của tri thức, và
do đó cái đúng, cái thực, hay mọi nhận định khác về thế giới quan đều chỉ là
tương đối.
Quan điểm mọi tri
thức đều là sản phẩm mang tính lịch sử-xã hội của các hoạt động của con người ở
một mức độ nào đódẫn tới sự hoài nghi về khả năng khách quan của tri thức. Điều
đó không phải là một điều mới mẻ, bởi nó đã có mặt trong tư tưởng của những triết
gia hoài nghi và ngụy biện của thời Hi Lạp Cổ Đại, hay trong những thách thức với
mối đe dọa bá quyền đang manh nha trong ngành khoa học tự nhiên ở đầu thế kỉ
18. Ở thế kỉ 19 và 20, triết lý này cũng là cơ sở nhận thức luận của một loạt
các triết gia như Charles Sanders Peirce, William James và John Dewey với trường
phái hành dụng, các nhà xã hội học như Karl Marx, và Karl Manheim, và các nhà
tâm lý học như Jean Piaget và Lev Vygotsky. Theo Young, trong trào lưu kiến tạo
luận xã hội đằng sau các nghiên cứu giáo dục, ở mỗi thời điểm khác nhau lại có
những tác gia hay trường phái khác nhau được nhắc đến. Đặc biệt, vào những năm
1980, những trường phái lý thuyết này có thêm sự góp của các lý thuyết diễn
ngôn và văn học. Trường phái này viện dẫn tới các tác gia hậu hiện đại, điển
hình là Derrida, Foucault và Lyotard,
coi đặc tính xã hội như một dạng văn bản, một diễn ngôn, hay như trong trường hợp
của Lyotard thì là một trò chơi ngôn ngữ.
Kiến tạo luận xã hội, ảnh hưởng của hậu hiện đại và một bế
tắc giáo dục
Tư tưởng kiến tạo luận xã hội được các nhà nghiên cứu
giáo dục chịu ảnh hưởng của tư tưởng hậu hiện đại dùng để phê phán hai cách tiếp
cận chương trình học chủ yếu đằng sau các chính sách giáo dục. Cách tiếp cận thứ
nhất được dựa trên nền tảng thực chứng luận, thể hiện một quan điểm bảo thủ đối
với chương trình học. Nó được thể hiện ở cách tổ chức theo môn học có tính ổn định,
bất biến, hay ở những quan điểm chống lại sự thay đổi trong cấu trúc chương
trình học, hoặc quan điểm hướng nội dung kiến thức xoay quanh những tác phẩm
kinh điển. Mặt khác, những vấn đề xoay quanh bản chất và điều kiện truyền thụ
và tiếp nhận tri thức phải được tôn trọng giữ cho không thay đổi. Các phê phán hậu hiện đại cho rằng một chương
trình theo tư tưởng này có mục đích bảo tồn cứng nhắc thứ tự của tri thức và
duy trì cấu trúc xã hội đang được theo đuổi, nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi của
giới thống trị và giới tinh hoa.
Cách tiếp cận thứ hai là cách tiếp cận thực dụng
(instrumentalism) không coi tri thức là thứ sẵn có, trái lại tri thức có tính tạm
thời và ngẫu nhiên và có thể linh hoạt hướng thứ tri thức ấy theo mục đích sử dụng.
Bản chất của nền tảng nhận thức luận theo cách tiếp cận này thực ra cũng là một
biến thể của kiến tạo luận xã hội, bởi nó quy giản tri thức vào mục đích của
con người. Cách tiếp cận này đòi hỏi
giáo dục phải đáp ứng trực tiếp cho nhu cầu xã hội và những mục tiêu chính trị-xã
hội khác như công bằng, dân chủ trong tiếp cận và tiếp nhận tri thức. Tư tưởng
hậu hiện đại về tri thức cũng được dùng để công kích những “diễn ngôn” mang
tính thực dụng đang thống trị trong các chính sách giáo dục, điển hình là “diễn
ngôn” tân tự do (neo-liberalism).
Theo Young, mặc dù những phê phán hậu hiện đại về chương
trình học không phải không có những “hạt nhân hợp lý”, nhưng nó chỉ dừng ở mức
vạch trần sự thật rằng những chính sách chương trình học luôn che đậy các quan
hệ quyền lực. Đặc biệt, khi đối cực hóa hai sự lựa chọn không khả thi giữa một
bên là tư tưởng thực chứng luận với luận điểm phi lịch sử, phi xã hội về tri thức
và một bên là tư tưởng hậu hiện đại với luận điểm phi-biệt hóa và tương đối về
tri thức, tất cả chỉ mang lại một bế tắc về nhận thức luận trong các nghiên cứu
giáo dục.
Young cho rằng chính vì bế tắc trong nhận thức luận, cũng
như ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của trào lưu hậu hiện đại, các nghiên cứu về
chương trình học hiện nay đang có xu hướng ngày càng xa rời những gì đang diễn
ra trong bản thân quá trình dạy và học để chú trọng tới những yếu tố bên ngoài
khác chi phối tình trạng đời sống con người trong xã hội hiện đại như những vấn
đề văn hóa, diễn ngôn hay bản sắc. Do ảnh hưởng bởi những tư tưởng này, Young
cho rằng các nghiên cứu về chương trình học từ trước tới nay đã quá chú trọng tới
những câu hỏi về chính trị và vấn đề tri thức hoàn toàn bị quy thành vấn đề quyền
lực và quan điểm. Các nghiên cứu giáo dục thường bận tâm với câu hỏi “ai là kẻ
định hình tri thức trong một chương trình học?”. Theo ông, những câu hỏi có
tính chất chính trị ấy không phải là không quan trọng, trái lại chúng rất cần
thiết trong nghiên cứu, nhất là với mối quan tâm của các nhà xã hội học về vấn
đề bình đẳng trong giáo dục. Bản thân ông cũng thấy mặc dù bắt đầu với một thiện
ý không phải không có cơ sở, tư tưởng kiến tạo luận xã hội dường như là lợi bất
cập hại vì nó hầu như chỉ mang lại những cuộc tranh cãi không dứt trong giới
nghiên cứu mà không đi tới được những tiêu chí khách quan nào cho việc phát triển
chương trình học. Coi tri thức và kinh nghiệm là một qua sự phi-biệt hóa, phủ
nhận tính khách quan của tri thức và suy giản nó thành những vấn đề quyền lực
và quan điểm, kiến tạo luận xã hội không giúp đem lại cơ sở cho việc xác định
vì sao một số dạng tri thức chứ không phải dạng khác lại cần được đưa vào
chương trình học.
Chính vì thế, cuốn sách này thể hiện cách Young nhìn nhận
lại một cách phê phán hướng đi của ngành xã hội học giáo dục hơn 30 năm qua
cùng với những bài học của nó. Quan trọng hơn, ông đưa ra một giải pháp hứa hẹn
giải quyết được bế tắc về vấn đề tri thức trong chương trình học hiện nay.
Vượt qua bế tắc: cách tiếp cận duy thực xã hội
Trào lưu duy
thực xã hội trong lĩnh vực xã hội học giáo dục này mới xuất hiện vào cuối
những năm 1990, ban đầu ở Anh, rồi lan sang Nam Phi, Úc, một số nước Mĩ La tinh
và châu Âu như Hi Lạp và Bồ Đào Nha. Nó ra đời vừa mang hình thức là một cuộc
khám phá lại những giá trị của truyền thống duy thực xã hội trong ngành xã hội
học mà khởi nguồn là tư tưởng của Emile Durkheim, lại vừa là tiếng nói phê phán
đối với những quan điểm đang chi phối các nghiên cứu và chính sách giáo dục hiện
nay trên thế giới, cụ thể là nhằm giải quyết bế tắc giữa thực
chứng luận và kiến tạo luận xã hội.
Theo Young, lý thuyết
duy thực xã hội giúp khắc phục những khiếm khuyết của hai cách tiếp cận thực chứng
luận và cách tiếp cận kiến tạo luận xã hội, đồng thời công nhận những hạt nhân
hợp lý của hai hình thức nhận thức luận đó. Một mặt, nó đồng ý với lập trường thực
chứng luận coi tri thức là thiêng liêng và khách quan đối với cảm nhận,
kinh nghiệm của con người. Tuy nhiên, khác với thực chứng luận,
duy thực luận xã hội không coi tri thức là bất biến và hoàn toàn độc lập với
hoàn cảnh lịch sử-xã hội. Trái lại, lập trường duy thực xã hội nhất
quán quan điểm tri thức dứt khoát có nguồn gốc xã hội–lịch sử, và do đó có thể
biến đổi theo thời gian, không gian và có thể sai lầm. Điều này thể hiện điểm
chung giữa duy thực luận xã hội và kiến tạo luận xã hội. Tuy
nhiên, trong khi luận điểm về tính xã hội của tri thức khiến tư duy kiến tạo luận
coi tri thức bị thu gọn trong bối cảnh nó ra đời, khiến nó đồng nhất với kinh
nghiệm và thiên kiến, thì lập trường duy thực xã hội khẳng định chính tính xã hội
của tri thức là cái mang lại tính khách quan của nó. Điều này không khiến cho
tri thức trở thành thứ giáo điều hay bị coi là thứ chân lý tuyệt đối, bởi tri
thức và chân lý mà con người khám phá luôn có thể sai lầm và do đó luôn cần được
xét lại. Nhưng cho dù bản chất tri thức là có thể sai lầm, sẽ là phi lý nếu
chúng ta phủ nhận khả năng của tri thức trong việc giúp con người hiểu hiện thực
bằng cách nắm lấy những nguyên lý phổ quát.
Luận điểm về nguồn
gốc xã hội–lịch sử và tính biệt hóa của tri thức có khởi nguồn với nghiên cứu về
tôn giáo của Emile Durkheim. Durkheim
nhìn tôn giáo không phải ở khía cạnh huyền bí mà nhận ra rằng đó là một biểu hiện
của cái mà ông gọi là “những biểu tượng tập thể”. Những biểu tượng tập thể này không xuất phát
từ trí óc cá nhân; chúng ra đời từ “bầu nhiệt huyết tập thể” của các cộng đồng
và là nguồn tạo ra những phạm trù cơ bản nhất trong tư duy con người đồng thời
là hình mẫu của mọi dạng lý thuyết cao cấp khác. Một phát hiện cơ bản trong những
khảo cứu về tôn giáo về nguồn gốc của những biểu tượng tập thể của Durkhiem là
sự phân biệt về trật tự nghĩa giữa “cái thiêng” và “cái phàm”, trong đó “cái
thiêng” gắn với thế giới tôn giáo và “cái phàm” gắn với đời sống thường nhật của
con người. Hai hình thái này có mặt trong mọi xã hội nguyên thủy và được
Durkheim khái quát hóa thành một đặc điểm của mọi xã hội qua các thời kì khác
nhau. Theo ông, “cái phàm” gắn với thế
giới hàng ngày của con người, thể hiện những phản ứng mang tính tức thì, thực dụng
và cụ thể của con người đối với môi trường xung quanh. Trái lại, “cái thiêng” gắn
với thế giới tôn giáo, có tính xã hội (chính thế giới ấy là sản phẩm của con
người), tĩnh võ đoán (không phụ thuộc những sự kiện và hoàn cảnh cụ thể ) và
tính tập thể. “Cái thiêng”, theo ông, là
tập hợp các hệ thống khái niệm trừu tượng, không phụ thuộc vào sự quan sát hay
kinh nghiệm của con người. Tính khách quan của nó được tạo bởi chính đặc tính
xã hội và tập thể, bởi thế nó có độ ổn định tương đối, buộc các cá nhân phải chấp
nhận chúng như là chân lý.
Theo Young, mặc dù vẫn tồn
tại một số hạn chế (là điều dễ hiểu và hiển nhiên), lý thuyết của Durkheim đã mang lại một cơ sở đầy sức thuyết phục cho việc giải thích sự phát triển và những điều kiện phát triển của tri thức, cùng với một thông điệp quan
trọng là sự phân biệt căn bản giữa ‘lý thuyết’
và ‘thực tiễn’ được tìm thấy trong mọi loại
hình xã hội”. Sự phân biệt giữa cái
thiêng và cái phàm cũng chính là khởi nguồn cho nguyên lý về sự biệt hóa tri thức
trong các tiếp cận duy thực xã hội, cụ thể là tri thức khái niệm (khái quát
hóa, lý thuyết) và tri thức kinh nghiệm thường ngày (everyday knowledge). Trong
tâm lý học, sự phân biệt này được học giả kiệt xuất người Nga Lev Vygotsky gọi
là “khái niệm khoa học” (scientific concept) và “khái niệm đời thường” (everyday concepts). Trong giáo dục thì đó là sự phân biệt giữa
tri thức học đường và tri thức phi học đường. Nguyên lý này là tiêu chí của nội
dung giáo dục (chương trình học, sách giáo khoa)
Một vài ý nghĩa của cách tiếp cận duy thực xã hội trong
giáo dục
Những luận điểm về
nguồn gốc xã hội – lịch sử và tính khách quan của tri thức theo cách tiếp cận
duy thực xã hội giúp tránh được bế tắc giáo dục gây ra do chủ nghĩa truyền thống
và thực dụng, đồng thời tránh được cả những khó khăn không “đáp ứng” được những
xướng xuất từ nhà phê bình theo thuyết hậu hiện đại. Cách tiếp cận duy thực xã hội giúp các nhà lập
chính sách, các nhà thiết kế chương trình học và nhà giáo nói chung tránh quan
điểm coi tri thức là điều mặc nhiên đúng và phi lịch sử theo quan điểm bảo thủ
và những quyết định dựa vào kinh nghiệm hay những yếu tố kinh tế, chính trị
ngoài tri thức làm cơ sở cho chương trình học. Đặc biệt là sự biệt hóa mang
tính xã hội của tri thức cho phép chúng ta thừa nhận rằng trong tất cả các lĩnh
vực hoạt động của con người luôn tồn tại loại tri thức siêu việt hơn những loại
khác, đó là thứ tri thức đáng tin cậy, giúp chúng ta tiến gần hơn tới chân lý,
hiểu đúng hơn về hiện thực thế giới quanh ta và cũng như xã hội loài người ta
đang sống. Theo Young, thứ tri thức ưu việt đó là tri thức khái niệm khoa học,
có tính khái quát hóa, giúp người học vượt thoát thế giới kinh nghiệm hàng
ngày, mà ông gọi “tri thức của sức mạnh” (powerful knowledge) để phân biệt với
“tri thức của kẻ mạnh” (knowledge of the powerful) như trong quan điểm kiến tạo
xã hội .
Sự công nhận sức mạnh của tri thức khoa học cũng chính là
nền tảng giá trị của một xã hội dân chủ, nó thể hiện cụ thể ở sự tin cậy đối với
những chuyên gia trong các ngành nghề của cả nghệ thuật cũng như khoa học. Sự
công nhận này cũng là nền tảng để chúng ta tôn trọng vai trò sư phạm và tri thức
của nhà giáo trong lớp học. Nếu không có niềm tin vào tri thức học đường, nhà
giáo sẽ không thể dạy, học sinh không thể học và phụ huynh sẽ chẳng cần đưa con
tới trường.
Đôi lời kết
Lâu nay trên các diễn
đàn giáo dục, trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam,
chúng ta thường xuyên bắt gặp một chủ đề quen thuộc về chương trình học trong
nhà trường, từ nhà trường phổ thông tới đại học. Ở bậc phổ thông, đặc biệt là bậc
tiểu học, có rất nhiều tranh cãi nổ ra xoay quanh vấn đề giảm tải chương trình
học, nhưng dường như tranh luận khó đi tới hồi kết vì các ý kiến thường cố gắng
thể hiện quan điểm cá nhân, người nói cần giảm cái này, kẻ nói cần giảm cái
kia, cần giảm nữa, giảm sâu hơn... Ở bậc đại học, chương trình học cũng là một
chủ đề nóng hổi với những chủ trương thay đổi từ ‘chương trình khung’ tới các
chương trình cụ thể mà điểm chung là hướng tới giảm thời lượng lý thuyết, tăng
thời gian thực hành và đào tạo kĩ năng mềm cho sinh viên để họ có thể thích ứng
với quá trình “toàn cầu hóa”, hướng tới một “xã hội tri thức”. Liệu tri thức trong các môn học phải lấy những mục tiêu chính trị - xã hội hay những giá trị
truyền thống làm cơ sở? Và những vấn đề về đổi mới hay giảm tải chương trình
nên dựa vào sự phản ứng của dư luận và xu hướng thời thượng của thế giới? Dường
như có một sự căng thẳng trong những cuộc tranh luận về chương trình học ở Việt Nam tương tự như
Young đã chỉ ra trong cuốn sách của mình.
Người viết bài cho
rằng để giải quyết những căng thẳng này,
điều trước tiên mà các nhà làm chính sách và nhà giáo dục cần làm là nhìn nhận
và đánh giá lại xem nhận thức luận nào đang làm cơ sở cho chương trình học mà
chúng ta hướng tới. Rõ ràng, những hiểu biết hệ thống về tri thức và nhận thức
luận đặc biệt cần thiết khi chúng ta muốn đánh giá sự hợp lý của một tư tưởng
giáo dục hay một chương trình học. Thứ tri thức nào chúng ta coi trọng đóng vai
trò làm nền tảng và giúp ta hiểu được bản chất nền giáo dục ta đang theo đuổi.
Cách tiếp cận duy
thực xã hội như đã nói tới trong bài có thể là một cơ sở đáng tin cậy giúp những
nhà quản lý và thiết kế chương trình học nhìn nhận được xem mình đang theo nhận
thức luận nào và hậu quả của nó ra sao đối với giáo dục. Mặt khác, nhận định về
sự biệt hóa mang tính xã hội của tri thức cũng là lời nhắc nhở cho những lối tư
duy võ đoán, tùy tiện trong quá trình thiết kế và thực hiện một chương trình học.
No comments:
Post a Comment