- Một số
người cho rằng không nên mất thời gian tranh luận về “Tiên học lễ...”,
nhưng tôi lại thấy diễn đàn này rất quan trọng. Bởi, vấn đề không đơn
giản chỉ dừng lại ở nội hàm chữ "Lễ", mà chúng ta đang dần đụng đến một
thói quen tư duy, một tập tính của một dân tộc, đến đường lăn của cỗ máy
giáo dục với một quá khứ mang nặng ảnh hưởng Nho giáo, mà quán tính của
nó đang tác động đến hiện tại và tương lai của xã hội Việt Nam. Từ Pháp
độc giả Nguyễn Khánh Trung gửi tham luận.
TIN BÀI LIÊN QUAN:
“Tiên học lễ…” với ba câu hỏi trên diễn đàn
Dựa vào gì để cân nhắc bỏ hay giữ “học lễ”?
Trí thức Nga: ‘Lễ’ và ‘Văn’ nên dạy cùng lúc
Bói không ra thầy dạy 'lễ'
Độc giả đề xuất khẩu hiệu thay thế 'Tiên học lễ...'
Luận bàn về những hệ lụy của chữ 'Lễ'
Dựa vào gì để cân nhắc bỏ hay giữ “học lễ”?
Trí thức Nga: ‘Lễ’ và ‘Văn’ nên dạy cùng lúc
Bói không ra thầy dạy 'lễ'
Độc giả đề xuất khẩu hiệu thay thế 'Tiên học lễ...'
Luận bàn về những hệ lụy của chữ 'Lễ'
Ảnh minh họa |
Giáo dục Việt hiện là hình thức “giáo dục cổ”
John
Dewey (1859 – 1952), nhà giáo dục nổi tiếng người Mỹ, trong tác phẩm
“Kinh nghiệm và giáo dục” đã gọi giáo dục của Mỹ hồi thế kỷ 19 về trước
là giáo dục cổ truyền. Đó là một kiểu giáo dục hướng về quá khứ, hành
động giáo dục là việc thực hiện sự áp đặt những kinh nghiệm, những kiến
thức của người lớn, những “chân lý vĩnh cửu” và những“giá trị vĩnh hằng”
lên trẻ nhỏ.
Chương trình giáo dục được cố định, hàm chứa các
kiến thức được áp đặt từ bên ngoài và bên trên lên học sinh, nó tựa như
một cái kho chứa đồ cũ với những ngăn- kéo theo liều lượng dựa trên kinh
nghiệm của người lớn. Người thầy chỉ việc lôi từng ngăn, và truyền lại
cho học sinh một cách đồng loạt theo yêu cầu từphía trên.
Đó cũng
là hình ảnh của giáo dục Việt Nam hiện tại. Nội dung giáo dục đã được
thiết kế trong sách giáo khoa (SGK) thường là những kiến thức, những giá
trị đạođức và văn hoá đã thuộc về quá khứ - mà có khi là quá khứ đã rất
lâu, với quan niệm kiểu “vĩnh cửu” được áp đặt từ người lớn bên ngoài
nhà trường lên học sinh.
Sự áp đặt của giáo dục Việt là đồng loạt -
đó là chuyện chúng ta chỉ sử dụng một bộ SGK cho tất cả các trường
trong hệ thống. Vai trò của giáo viên tựa nhưnhững “phát ngôn viên”, như
những người thừa hành, những người được giao khoán từ trên. Nhiệm vụ
của họ là chuyển tải cho học sinh những thứ có sẵn, đã được thiết kế
theo ý người lớn, chẳng liên quan gì đến kinh nghiệm của trẻ nhỏ trong
hiện tại, mà lắm khi cũng chẳng ăn nhằm gì với tương lai của các em.
Trong
mô hình giáo dục này, học sinh đóng vài trò thụ động, thường là trật
tự, ngay hàng thẳng lối, ngồi yên để nghe giảng, giáo viên là người
trên, đứng trên bủng giảng để “dạy” các em, dạy những thứ của cấp trên
của của giáo viên giao phó... Hình ảnh lớp học mà chúng ta thường thấy
hằng ngày trong nước.
Giáo dục hiện đại
Ngược
lại với mô hình giáo dục cổ truyền, J.Dewey gọi mô hình giáo dục trong
phong trào cải cách giáo dục tại Mỹ cuối thế kỷ 19 là “giáo dục hiện
đại”, “giáo dục tiến bộ”. Giáo dục hiện đại khởi đi từ kinh nghiệm hiện
tại của chính người học, chứ không phải của người lớn, không phải của
người thầy.
Kinh nghiệm của học sinh lại phụ thuộc vào lứa tuổi,
vào môi trường xung quanh nơi các em sinh sống. Một học sinh ở thành phố
sẽ có những kinh nghiệm khác với học sinh ở nông thôn, vì bối cảnh vật
chất, xã hội xung quanh, những con người các em thành thị tiếp xúc
thường ngày khác với những gì học sinh nông thôn thường gặp...
Nội
dung chương trình giảng dạy phải được thiết kế từ những kinh nghiệm
này, do vậy, nó phải là mỗi nơi phải mỗi khác, hình thức sư phạm mỗi nơi
cũng phải mỗi khác. Hay nói cách khác, không thể áp đặt một chương
trình quốc gia chi tiết chung cho tất cả học sinh của tất cả các nơi,
không thể áp dụng một hình thức phương pháp sư phạm cho tất cả các học
sinh.
Người Phần Lan thành công trong giáo dục hiện nay là nhờ áp
dụng nguyên tắc này, nội dung chương trình, phương pháp sư phạm trong
nhà trường, nhất là trường tiểu học không những dựa vào từng lứa tuổi,
từng vùng địa lý với môi trường văn hoá xã hội khác nhau, mà thậm chí
tuỳ vào thể trạng, năng khiếu của từng học sinh. Uỷ Ban Giáo dục Phần
Lan có đưa ra một chương trình khung quốc gia, nhưng chỉ là những nét
rất chung, quy định một cách tổng thể các mục tiêu giáo dụcđược in trong
chưa đến chục trang giấy, còn việc bằng con đường nào để đạt được mục
tiêu đó là việc của các trường, là việc của từng giáo viên đứng lớp.
Trách nhiệm người thầy
Làm
thầy trong giáo dục hiện đại khó khăn vất vả hơn nhiều so với giáo dục
cổtruyền. Trước hết họ phải là những chuyên gia tinh tường về tâm sinh
lý tuổi nhỏ, để có thể hiểu, nắm được suy nghĩ, kinh nghiệm của từng học
sinh như là chính của học sinh. Từ đó, chính họ là những kiến trúc sư
thiết kế nên các nội dung chương trình giảng dạy, lựa chọn các phương
pháp sư phạm phù hợp cho từng nhóm, thậm chí là cho từng học sinh trong
lớp.
Do đó, ngoài giờ lên lớp, họ phải bỏ thời gian và công sức
rất nhiều đểnghiên cứu từng nhóm nhỏ, từng học sinh trong lớp và phải
soạn thảo nhiều giáo án cho cùng một lớp học. Như vậy, giáo viên trong
giáo dục hiện đại không những phải giỏi về sư phạm nhưng còn phải nắm
vững và cập nhật thường xuyên chuyên môn của môn học, vì chính họ là tác
giả của các chương trình nội dung giảng dạy trong sự tương tác với học
sinh.
Người thầy là chìa khoá quyết định trong sự thành bại của giáo dục hiện đại.
Tại
Phần Lan, trình độ giáo viên tối thiểu cũng phải thạc sĩ, các cô cậu tú
muốn trở thành giáo viên phải qua trường sư phạm mà ở đó cửa vào là rất
hẹp. Người trẻ Phần Lan ai cũng mong ước được trở thành “kỹ sư tâm
hồn”, một nghềnghiệp cao quý, được cả xã hội trọng vọng, thế nên các
trường sư phạm tha hồchọn lựa nhân tài, trái hẳn với cảnh “chuột chạy
cùng sào mới vào sư phạm” như ởnước ta hiện nay.
Các tri thức
khoa học cũng như các giá trị đạo đức và văn hoá mà nhà trường chuyển
tải cho học sinh phát triển như một dòng chảy, không có gì là cố định
bất biến kiểu như “lời thánh hiền”, do vậy, nội dung chương trình giảng
dạy cũng phải động và luôn mở. Giáo dục hiện đại không bám chặt trên quá
khứ và càng không hướng về quá khứ, nó phải khởi đi từ hiện tại và
hướng về tương lai. Nói theo cách của J. Dewey là giáo dục hiện đại phải
gắn liền với sự tăng trưởng. Mọi nội dung truyền thụ trong nhà trường
nếu không hướng đến làm cho học sinh phát triển, qua đó làm cho xã hội
phát triển thì chẳng để làm gì.
Nhà trường có thể chuyển tải cho
học sinh ít nhiều những kinh nghiệm và kiến thức của “người xưa”, nhưng
mục đích là để làm cho học sinh hiểu hiện tại trong dòng chảy của nó và
hướng về tương lai, chứ không phải đóng khung cố định trẻ em trong một
điều gì đó đã thuộc về quá khứ kiểu như giáo dục Nho giáo ngày xưa.
Hiệu quả...
Giáo
dục hiện đại đề cao dân chủ, vì dân chủ là một đặc tính của thời đại,
dân chủ trong nhà trường là việc cả người lớn và trẻ nhỏ. Cả thầy và trò
cùng nhau thiết kế nên những mục tiêu của giáo dục dựa trên những kinh
nghiệm hiện tại của trò, và cùng nhau hướng về một hướng mà cả thầy và
trò là những tác nhân chủ động xây dựng nên, chứ không phải chịu sự áp
đặt của những người từ bên trên, bên ngoài nhà trường.
Mục đích
của giáo dục là làm cho trẻ nhỏ tự chủ, phát triển tối đa trí thông
minh, khả năng phán đoán, khả năng tư duy độc lập và phản biện. Đây là
những phương tiện quan trọng để các em tự tạo ra kiến thức cho mình, tạo
ra thói quen tự học không phải chỉ trong nhà trường mà suốt đời.
Tự
chủ trong việc học tập sẽ tạo thành tập tính nơi học sinh khi trưởng
thành. Người công dân tương lai sẽ có đủ khả năng làm chủ chính mình,
làm chủcuộc sống của mình, có khả năng tự thay đổi, biết phát hiện và có
khả năng giải quyết, khắc phục những khó khăn - những vấn đề do cuộc
sống đặt ra cho cho mình, cũng như cho môi trường sống xung quanh.
Vì tầm quan trọng của vấn đề, tôi mong VietNamNet nhân đây, kêu gọi độc giả, các nhà nghiên cứu, các bậc thức giả cùng tham gia tranh luận về triết lý giáo dục. Một đề tài theo tôi là căn bản, có tính quyết định nếu muốn “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục” một cách thật lòng. |
No comments:
Post a Comment