Monday, August 19, 2013

KHỔNG GIÁO


Nguyễn Thanh Liêm

 

I - KHỔNG TỬ BẬC THẦY CỦA MUÔN ĐỜI

Khổng Tử ra đời năm 551 trước Tây lịch. Ngài là người nước Lỗ nay thuộc vùng Sơn ĐÔng ở phía Bắc nước Trung Hoa. Lúc mới lên ba tuổi Khổng Tử đã phải chịu cảnh mồ côi cha. Năm 19 tuổi Khổng Tử đã lập gia đình. Cuộc đời đi làm việc cũng bắt đầu từ đó với chức vụ rất khiêm nhường là “Ủy lại” là chức coi việc thóc lúa trong kho. Ít lâu sau Khổng Tử được giữ chức vụ trong coi nuôi bò để dùng trong vấn đề tế lễ. Khổng Tử rất thích nghiên cứu học hỏi, nhất là về những gì liên quan đến lễ nghi, đến văn hóa và sử ký nước Tàu. Khoảng 29 tuổi Khổng Tử nhờ con của Lỗ Hầu giúp đỡ phương tiện để đi đến Lạc Ấp (kinh sư của nhà Chu) để học hỏi. Ở đây có nhà Minh đường do triều đình lập ra để chứa các luật lệ, thu tập những bảo vật cùng những di tích của các bậc thánh hiền đời trước (xem như là văn khố và bảo tàng viện của chúng ta bây giờ vậy.) Nhờ đó Khổng có cơ hội để khảo cứu tường tận các nghi thức tế lễ, các thể chế nơi miếu đường cũng như các nơi giao tế.

Học hỏi ở Lạc Ấp được một thời gian Khổng Tử mới trở về nước Lỗ. Cuộc đời đi dạy học của Ngài bắt đầu từ đó, tiếng tăm của Ngài bắt đầu được đồn xa, số học trò theo học càng ngày càng đông. Nhưng đến năm 517 trước Tây Lịch, lúc nầy Khổng Tử đã được 35 tuổi, nước Lỗ trải qua cơn loạn lạc, Khổng Tử phải sang qua sống ở nước Tề một thời gian hơn năm năm. Mãi đến năm 511 trước Tây lịch Ngài mới trở về nước Lỗ để san định sách vở. Lúc này Ngài đã được 42 tuổi. Ngài vẫn tiếp tục dạy học. Học trò của Ngài rất đông. Họ đến từ nhiều nơi trên khắp nước Tàu. Khổng Tử rất vui với cuộc đời dạy học và bầu bạn với nhiều người từ phương xa đến, như Ngài đã nói trong quyển Luận Ngữ:
“Học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ?
Hữu bằng tự viễn phương lai bất diệc lạc hồ?”
Ý nghĩa của câu nầy là: “Học và thường luyện tập chẳng đẹp lắm sao? Có bầu bạn từ phương xa tìm đến như vậy chẳng vui lắm sao?”
Tuy nhiên nhà giáo dù có yêu nghề, yêu thương đệ tử đến đâu cũng không thể quên được nợ núi sông. Học không phải chỉ để “tu thân” với “tề gia”, nó còn đòi hỏi người ta phải đem tài đức của mình ra để “trị quốc” và giúp “bình thiên hạ” nữa. Khổng Tử là bậc thầy đã dạy người ta phải “tu, tề, trị, bình” thì không thể không tự mình áp dụng chủ trương đó. Ngài phải đem “vương đạo” ra thi thố, phải phổ biến chủ trương và chánh sách chánh trị, đạo đức ở các nơi trên nước Tàu. Do đó mà ngài đã tạm ngưng việc dạy học để ra chấp chánh một thời gian. Theo lời mời của vua nước Lỗ, Ngài ra giữ chức Trung Đồ Tể, tức là Kinh Thành Phủ Doãn (như Đô trưởng bây giờ.) Sau đó ít lâu được thăng lên chức Đại Tư Khấu, cũng như Hình Bộ Thượng Thư, tức như Tổng Trưởng Tư Pháp ngày nay. Và sau cùng được cử làm Nhiếp Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị trong nước như Thủ tướng của một quốc gia vậy.
Tuy nhiên vì Ngài là người hết mực đạo đức, chỉ muốn đem Vương đạo ra thi thố trên đời, cho nên chánh sách cai trị của Ngài tuy có lợi cho nhân dân vẫn không được các vua chúa thời đó trọng dụng. Lý do dễ hiểu là vì thứ chánh trị đạo đức đó chỉ có lợi cho dân mà không thỏa mãn được lòng tham quyền quý cao sang của vua chúa lúc bấy giờ. Khổng Tử và một số ít đệ tử trung thành đã đi chu du thiên hạ suốt mười mấy năm trời không tìm được một nơi nào để có thi hành vương đạo nữa. Sau 14 năm chu du khắp nước Tàu mà không được ai dùng đến trong việc trị nước. Ngài lại trở về nước Lỗ, sống những ngày còn lại của cuộc đời nơi quê nhà. Lúc này Ngài đã được 68 tuổi.
Năm 474 trước Tây lịch, một hôm Khổng Tử dậy sớm đi tới đi lui trước cửa vừa hát:
 “Thái Sơn kỵ đồi hồ?
Lương mộc kỵ hoại hồ?
Triết nhân kỵ ngụy hồ?
(Tạm dịch)
 “Núi Thái Sơn có lẽ sẽ đổ chăng?
Cây lương mộc có lẽ sẽ nát chăng?
Người hiền triết có lẽ sẽ nguy rồi chăng?”
Bài hát này nói lên tâm trạng của Khổng Tử khi ngài nằm mộng thấy rằng mình sắp sửa lìa đời. Ngài thuật giấc mộng đó cho người học trò thân tín nhất của mình là Tử Cống biết. Giấc chiêm bao thật là linh ứng. Mấy hôm sau Khổng Tử trút hơi thở cuối cùng. Ngài thọ 73 tuổi.
Khổng Tử mất rồi các đệ tử vô cùng thương tiếc. Ai cũng để tang ba năm. Có hơn 100 đệ tử làm nhà ở gần mộ Khổng Tử cho đến khi mãn tang. Riêng Tử Cống thì đã ở đó đến hơn 6 năm.
Tư Mã Thiên trong phần thuật lại cuộc đời của Khổng Tử đã viết: “Tôi đọc sách họ Khổng, tưởng tượng như trông thấy cách làm người của Thầy. Sang nước Lỗ xem nhà thờ Khổng Tử với nào xe, nào áo, nào đồ thờ, nào các học trò thời thường đến đó tập lễ, tôi bồi hồi ở lại không về được. Nhiều vua chúa và những người tài giỏi khi sống rất vẻ vang nhưng khi chết rồi là hết, chẳng còn gì để lại cho đời sau. Thầy Khổng Tử thì áo vải đạm bạc vậy mà khi mất đi rồi lời dạy của thầy truyền hơn 10 đời mà học giả vẫn còn tôn trọng. Từ Thiên Tử đến vương thần ở nơi xứ Trung Quốc này, hễ nói đến Sấm Kinh đều phải lấy thầy làm đích. Thật đáng là bậc chí thánh vậy.”
Cuộc đời của Khổng Tử là cuộc đời của một nhà giáo dục chân chính, một bực thầy vĩ đại không phải là chỉ riêng Trung Hoa mà còn cho cả thế giới loài người nữa. Với Khổng Tử địa vị của ông thầy đã được người đời xưa nâng lên trên cả địa vị của ông cha trong gia đình . “ Quân, Sư, Phụ” sau ông vua là đến ông thầy rồi sau hết mới đến ông cha. Người cha cũng có bổn phận dạy dỗ, giáo dục con cái của mình, nhưng trong xã hội xưa người dạy dỗ con mình  nhiều nhất, người theo dõi san sóc vun xới cái vườn kiến thức và đạo đức của con mình biến nó thành một vườn hoa tươi tốt người đó chính là ông thầy nó. Làm cho một người trở thành một người có kiến thức có đạo đức sống xứng đáng với ý nghĩa cao đẹp của con người đó là công của ông thầy, của người biết mang trong mình cái trọng trách “hối nhân bất quyện” (dạy người không biết mệt). Khổng Tử đã ý thức được sứ mạng cũng như thiên chức cao quý của một lương sư. Sứ mạng cũng như thiên chức đó là truyền bá cho người đời đạo làm người hay lề lối sống thế nào để cho cá nhân, gia đình, quốc gia, xã hội loài người được tốt đẹp, trật tự, hòa bình. Hậu thế đã tôn sung Ngài như bậc thầy của muôn đời, bậc “vạn thế sư biểu”, bởi chủ trương, đường lối, mục tiêu, phương pháp giáo dục của Ngài chứa đựng nhiều giá trị mà người đời sau phải công nhận và học hỏi.
Giáo dục là phải đổi mới. Nhưng đổi mới ở đây không phải cắt đứt hẳn với quá khứ để khoác lên mình một bộ mặt hoàn toàn mới lạ không liên hệ gì tới dĩ vãng. Giáo dục không phải là cách mạng để có thể xóa bỏ hết những gì đã có dù tốt, dù xấu. Sự đổi mới của giáo dục có tính cách liên tục và chọn lọc. Người làm giáo dục phải nghiên cứu học hỏi cái cũ, chọn lấy cái hay cái đẹp của quá khứ để từ đó thêm vào cái tốt đẹp của cái mới. Một phần quan trọng của cuộc đời Khổng Tử đã được dâng hiến cho việc sưu tầm, nghiên cứu, chọn lọc, san định kinh sách để lưu truyền di sản tinh thần tốt đẹp đó của cố nhân cho thế hệ sau nầy. Khổng Tử đã từng khiêm nhượng bảo là Ngài chỉ “thuật nhi bất tác” (có nghĩa là chỉ thuật lại những gì người xưa đã nói chớ chính mình không có sáng tác gì mới mẻ), nhưng ngay trong việc thuật lại đó cũng đã có phải sáng tác lớn lao của Ngài rồi. Vì thuật lại ở đây không có nghĩa là ghi chép lại trọn vẹn y như cũ mà là nghiên cứu, sưu tập, chọn lựa, sắp xếp làm thành hệ thống. Đó là một hình thức sáng tác vậy… Vả lại Khổng Tử không phải chỉ đào sâu vào quá khứ thôi mà Ngài còn bổ sung cho quá khứ đó nữa. Cho nên một ông thầy giỏi, theo Khổng Tử phải là người biết những cái mới bằng cách ôn lại những cái cũ. Biết “Ôn cố nhi tri tân” là có thể dạy được người khác vậy. Trong chủ trương trên người ta thấy có tinh thần khiêm nhường để học hỏi cái hay xưa cùng với tính cách liên tục từ trước đến giờ và mãi mãi về sau. Nó không phải là một thứ cách mạng cắt đứt hoàn toàn với quá khứ để tạo ra cái gì mới mẻ lạ lùng. Nó bao hàm ý nghĩa của sự tiến bộ, đổi mới, thực hiện một cách chắc chắn vững chãi, tựa trên sự tiếp nối liên tục với quá khứ.
Những suy tư về giáo dục cũng như phương pháp học tập của Khổng Tử tuy rãi rác ở nhiều chỗ trong Tứ Thư nhưng phần chính yếu được cô đọng trong quyển Đại học. Ngày nay chúng ta dùng danh từ đại học để chỉ bậc học cao nhất trong ba bậc học quen thuộc là tiểu học, trung học và đại học. Bậc đại học là bậc tiếp theo và cao hơn bậc trung học. Ngày xưa ở thời đại của đức Khổng Tử, giáo dục chưa được tổ chức có hệ thống và qui củ như ngày nay thành ra chưa có sự phân định rõ ràng về ba bậc tiểu – trung – đại học như bây giờ. Tuy nhiên danh từ “Đại Học” mà Khổng Tử dùng làm nhan đề cho quyển sách của Ngài cũng mang ý nghĩa của cái học ở bậc cao. Thật sự thì cũng chẳng có tiêu chuẩn nào ấn định rõ rệt thế nào là bậc cao vì vậy nên nhiều học giả cho rằng đại học ở đây chỉ cái học của bậc cao nhân quân tử (hay đại nhân) tức là cái học của những người có tài có đức để kẽ sĩ ra sức gánh vác việc quốc gia, xã hội. Nhưng dù hiểu thế nào đi nữa thì việc giáo dục của đức Khổng Tử cũng có tính cách mở rộng cho mọi người chớ không phải giới hạn cho một loại người nào lúc bắt đầu. Không phải là bậc đại nhân rồi mới được lựa chọn để theo học. Không có vấn đề thi tuyển hay khảo sát gì cả, và cũng không có một chính sách kỵ thị nào trong vấn đề thu nhận người vào học. Đối với Khổng Tử mọi người khi sanh ra đời đều mang trong mình bản tánh tốt tự nhiên ai cũng như ai. Nhưng khi lớn lên vì ảnh hưởng của xã hội, của hoàn cảnh xung quanh và môi trường sinh sống mà người ta thay đổi khác nhau. Người ta khi sanh ra đời ai cũng có bộ óc, có đời sống trí thức, hay cái “minh đức” như Khổng Tử gọi, cho nên ai cũng có thể được giáo dục để trở nên tốt đẹp hơn.
Vì ai cũng như ai, lúc bắt đầu, ai cũng mang trong mình bản chất và giá trị của con người, nên cần phải có cơ hội đồng đều cho mọi người trong vấn đề học vấn, giáo dục. Tính cách nhân bản của một nền giáo dục bắt đầu từ chỗ đó. Dịch vụ giáo dục phải được đem đến cho mọi người một cách đồng đều không có vấn đề sàng sãi, lựa chọn, thứ nhất là bằng lý lịch của gia đình hay tổ tông, bằng màu da, bằng nơi sanh đẻ bằng tình trạng kinh tế xã hội (social economic status) hay bằng bất cứ những yếu tố gì khác. Nền giáo dục được coi là nhân bản phải bắt đầu từ chỗ mở rộng cửa ngay từ đầu để đón nhận mọi người như nhau. Vấn đề chuyên môn hóa ở trên đại học ngày nay có thể đưa đến sự giới hạn, chọn lọc sinh viên trong một số ngành chuyên môn nào đó. Nhưng sự hạn chế số sinh viên trong một ít ngành chuyên môn trên đại học không phải là sự đóng kín cửa các đại học không cho người ta được đi học vì một lý do nào đó (như vì cha ông thuộc thành phần chánh trị khác với nhóm người đang cầm quyền chẳng hạn.) Nền giáo dục nhân bản phải bắt đầu từ chỗ xem mọi người là con người như nhau, nghĩa là cùng mang bản chất người và cùng có giá trị của con người.
Giáo dục của đức Khổng Tử bắt đầu từ chỗ đó. Đối tượng của nó là con người với tất cả giá trị của con người. Mở đầu quyển Đại học Khổng Tử bảo: “Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện.” Câu này có nghĩa là : “Con đường của đại học là ở chỗ làm sáng cái đức sáng ở nơi con người, ở chỗ làm mới người dân, ở chỗ dừng lại ở nơi thật đẹp.” Ý nghĩa thật sự của câu nói này cần được khai triển thêm cho rõ. Nó nói lên mục tiêu của sự học hỏi của bậc đại nhân. Mục tiêu đó là học hỏi để làm cho tâm trí của mình được sáng tỏ, và khi tâm trí mình được sáng tỏ mở mang thì hãy đem sự hiểu biết của mình mà giúp đỡ khai hóa người dân làm cho dân chúng được tiến bộ mới mẻ, và tiếp tục giúp đỡ người đời và quốc gia xã hội đưa quốc gia xã hội đến chỗ thật tốt đẹp. Mọi người ai cũng như ai, đều mang sẵn trong người một cái “đức sáng” (minh đức) khi sanh ra đời. Tuy nhiên vì hoàn cảnh xã hội, vì môi trường sinh sống khác biệt của mỗi người mà cái đức sáng đó không được phát huy hoặc bị lu mờ như một tấm gương bị bám bụi. Công việc của giáo dục là làm sao phát huy được đức sáng đó, cũng như luôn luôn lau chùi tấm kiếng đừng cho bám bụi để làm cho nó trở nên sáng sủa sẵn có từ trước chớ không làm cho sự sáng sủa của nó gia tăng. Ngược lại cái đức sáng ở nơi con người nếu được trao dồi cẩn thận sẽ đựơc phát huy và trở nên sáng sủa hơn trước rất nhiều.
Nhưng đức sáng ở con người là cái gì?
Trong địa hạt tâm lý, nhất là khi liên hệ tới giáo dục, người ta thường nói đến trí tuệ (intelligence), là khả năng thu nhận những tin tức những dữ kiện những kiến thức cũng như khả năng giải quyết các vấn đề một cách khéo léo nhanh chóng. Nó là đầu não, là bộ óc là tâm trí hiểu theo nghĩa thông thường. Cái minh đức mà Khổng Tử nói đến trong quyển Đại học của Ngài là trí tuệ của con người, là đầu não là bộ óc hay tâm trí của con người vậy. Tự nó, tuy đã mang cái mầm sáng sủa, nhưng chưa đủ sáng, nó cần phải được rèn luyện trao dồi thêm. Học vấn, giáo dục là công trình giúp tâm trí con người được phát triển mở mang đầy đủ. Mục tiêu kế tiếp là làm mới người dân. Có người nào cho rằng chữ “tân dân” ở đây phải đọc và hiểu là “thân dân” mới đúng. Thân dân là gần gũi với dân, thương yêu giúp đỡ người dân. Thân dân mới hàm chứa được lòng nhân mà Nho giáo luôn luôn nhấn mạnh. Tân dân chỉ là làm mới người dân, mà làm mới người dân vì lợi ích của kẻ thống trị, thì chưa chắc đã bao hàm ý nghĩa gần gũi, thương yêu dân chúng. Thật sự thì đối với dân, nhà Nho thường đặt trọng tâm vào ba việc là “thứ, phú, giáo” tức là làm cho dân đông, làm cho dân giàu và dạy dỗ giáo dục người dân. Thương dân, lo cho đời sống của người dân được phát triển đầy đủ. Nhà Nho lúc nào cũng nghĩ đến dân, ý dân là lòng trời theo quan niệm của Nho giáo. Cho nên theo thiển ý, tân dân hay thân dân gì cũng được vì đối với Nho giáo tinh thần nhân bản vẫn được đề cao, và người dân là cứu cánh chớ không phải là một phương tiện trong hệ thống triết lý này.
Mục tiêu sao hết là dừng lại ở chỗ thật tốt đẹp (chỉ ư chí thiện). Có lẽ đây là mục tiêu không bao giờ đạt được bởi có bao giờ đi tới chỗ chí thiện đâu. Thành ra có thể đây là mục tiêu để người ta luôn luôn hướng tới vậy thôi chớ sự chí thiện thì chắc chắn chẳng bao giờ có được. Chúng ta có thể hiểu mục tiêu này như là sự luôn luôn hướng đến chỗ toàn thiện toàn mỹ. Chi tiết hơn và với một hiện biện chứng chặt chẽ hơn Khổng Tử nói đến những giai đoạn ứng dụng của học vấn giáo dục như sau: Tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ, tức là sửa mình cho tốt đẹp, sắp đặt việc nhà cho đâu vào đấy, góp phần vào việc xây dựng quốc gia, và đóng góp vào việc làm cho thế giới hòa bình yên ổn. Học vấn giáo dục phải được dùng vào việc làm cho tốt đẹp từ cá nhân đến gia đình đến quốc gia và đến cả thế giới loài người ở trên trần gian.
Tu thân là sửa mình, là biến con người từ chỗ sai lầm khiếm khuyết đến chỗ đúng đắn, tốt đẹp. Tu thân đòi hỏi phải có học vấn giáo dục để mở mang trí tuệ, phát triển óc suy tư, nhận biết được cái gì đúng, cái gì sai, giữ lấy cái đúng, cái tốt và hành động theo những tiêu chuẩn đúng và tốt đó. Học vấn giáo dục ứng dụng vào trường hợp mỗi cá nhân là như thế. Khi cá nhân được tu sửa, con người trở nên tốt và đúng, thì người ta có thể dùng ảnh hưởng tốt của mình cộng thêm những kiến thức mình đã học hỏi được để dùng vào việc sắp đặt lo lắng cho gia đình được yên ấm đâu vào đó, trên dưới có ngăn nắp có trật tự. Lo cho gia đình yên ổn được rồi thì có thể đem tài đức của mình phụng sự  cho quốc gia, góp phần dựng nước và trị nước. Trong một quốc gia, nếu từ người lãnh đạo ở trên cao như vua, tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng cho đến những cấp lãnh đạo ở dưới như tổng, bộ trưởng đến đổng lý, tổng thư ký, tổng giám đốc và xuống dưới nữa như chánh sự vụ, trưởng ty, chủ sự…đều có học vấn giáo dục, đều biết sửa mình để trở nên đúng và tốt đều biết làm hết bổn phận và trách nhiệm của mình đối với quốc gia dân tộc thì bộ máy chính quyền sẽ vô cùng tốt đẹp và công việc trị nước và dựng nước rất hữu hiệu và kết quả sẽ thật mỹ mãn. Nhà cửa yên ổn, quốc gia hùng mạnh tốt đẹp thì có thể mở rộng ảnh hưởng đi đến cảnh thanh bình an lạc cho cả thế giới loài người. Lý tưởng hơn nữa là nếu quốc gia nào cũng có được những người có kiến thức tốt, biết sửa mình để hành động đúng thì cảnh thanh bình an lạc cho mọi người trên cõi đời này chắc chắn sẽ thực hiện được như vậy.
Nhưng phải học như thế nào để có thể đạt được kết quả tốt? Trong quyển Đại học thầy Khổng Tử bảo phải “thành ý, chánh tâm, trí tri, cách vật”. Thành ý là lòng thành thật, thành thật nhận thấy mình biết hay không biết, hiểu hay không hiểu, và thành thật muốn học hỏi. Muốn học hỏi cho đến nơi đến chốn thì trước hết phải nhận biết tình trạng của mình và có tấm lòng thành muốn học hỏi thật sự. Đó là điều kiện cần phải có cho việc học. Nhưng thành ý chỉ mới là điều kiện cần thôi chưa phải là điều kiện đủ. Chánh tâm mới là điều kiện đủ. Chánh tâm là lòng mình phải ngay thẳng. Làm cho lòng mình ngay thẳng ở đây có nghĩa là phải dứt bỏ mọi định kiến, mọi hiểu biết sai lầm đã có từ trước vì tất cả những cái đó có thể làm cho cái nhìn của mình thiên lệch, thiếu vô tư. Sự thiên lệch (bias), thiếu vô tư, thiếu khách quan sẽ rất dễ đến những nhận xét hay những hiểu biết nông nỗi, không chính chắn. Làm cho lòng mình ngay thẳng chính chắn để đừng bị chi phối bởi những định kiến, những hiểu biết sai lầm từ trước, để cho mình có được cái nhìn trung thực, chính chắn về mọi sự, mọi vật. Đó là điều kiện đủ để cho sự học hỏi có kết quả thực sự. Khi đã có những điều kiện cần và đủ rồi thì người ta có thể đi đến chỗ “trí tri” tức là hiểu biết đến nơi đến chốn, bằng phương pháp “cách vật” tức là mổ xẻ phân tích sự vật. Vật ở đây không chỉ giới hạn ở vật thể mà nên hiểu rộng là mọi sự việc và mọi vật hay một cách tổng quát là tất cả những gì có thể trở thành đối tượng của sự nghiên cứu học hỏi. Một vật như máy điện thoại, máy tính, cái dây, cái hoa, con chim, con cá cho đến các sự việc như một hiện tượng xã hội hay một hiện tượng thiên nhiên…đều có thể là đối tượng của sự nghiên cứu. Hãy phân tích, mổ xẻ đối tượng, tìm hiểu sâu xa các chi tiết liên hệ để đi đến sự hiểu biết đầy đủ đến nơi đến chốn đó là “trí tri tại cách vật” vậy.
Trên đây là đường lối, phương cách học hỏi, còn phương pháp giảng huấn thì như thế nào?
Phương pháp giảng huấn mà đức Khổng Tử đã áp dụng trong cuộc đời dạy học của Ngài cho đến ngày nay vẫn còn được khoa sư phạm (pedagogy) lưu ý học hỏi để áp dụng, nhất là ở những nước có tự do dân chủ và nền giáo dục mang nhiều tính chất nhân bản. Phương pháp giảng huấn của Khổng Tử không được ghi chép thành văn nhưng người đời sau có thể suy ra từ những gì mà các đệ tử của Ngài ghi lại về cuộc đời dạy học của Ngài. Có thể tóm tắt những nét chính trong phương pháp giảng huấn của ông thầy vĩ đại này như sau:
1. Thương từng người học trò; hiểu rõ từng cá nhân mỗi người; giúp mỗi cá nhân phát triển tựa trên hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người. Đây là một điểm tâm lý sư phạm rất đáng được lưu ý. Ngày nay nhiều nhà tâm lý sư phạm vẫn đề cao đường lối “cá nhân giáo huấn” (individualized instruction) vì người ta thấy rằng mỗi người có một đời sống tâm lý (nhất là tính tình, nhân cách, trí tuệ…) cũng như một môi trường sinh sống (hoàn cảnh gia đình và xã hội) đặc biệt của mình, không ai hoàn toàn giống ai cả. Do đó khi áp dụng một chương trình học duy nhất, cứng rắn cùng một cách giảng dạy như nhau cho cùng một số đông người thì kết quả của công trình giảng dạy, học tập (teaching / learning process) sẽ không được tốt đẹp lắm. Đáng lý ra người ta phải có một chương trình học và một phương pháp giảng dạy thích hợp cho mỗi cá nhân học sinh nhưng việc đó không thể nào thực hiện được cho nên người ta phải tạm dùng cách chuyên môn hóa (specializing) phân chia các ban, phân chia học sinh ra từng lớp hay từng nhóm có trình độ gần nhau để công việc giảng dạy / học tập có kết quả hơn. Tạo cơ hội đồng đều (equal opportunity) để mọi người đều được hưởng quyền giáo dục, tức là không kỳ thị, không loại bỏ một ai là điều cần phải có trong một nền giáo dục nhân bản, nhưng điều đó không có nghĩa là phải xem tất cả các người đi học đều giống hệt như nhau và đều bằng nhau về phương diện khả năng thu nhận và học tập.
2. Vai trò của người thầy không phải là tạo ra những bộ óc cho người đi học, cũng không phải là để nhồi vào đầu óc người đi học một mớ kiến thức nào đó một cách máy móc và cũng không nên xem bộ óc con người như một tờ giấy trắng mà mình muốn vẽ cái gì lên đó cũng được.
Vai trò thực sự đúng nghĩa của người thầy là người hướng dẫn, giúp đỡ cho người đi học có cơ hội và biết đường hướng để phát triển con người toàn diện. Ở bên trời Tây, và cũng xấp xỉ đồng thời với Khổng Tử, nhà hiền triết Socrates cũng có quan niệm tương tự như Khổng Tử về vai trò của giáo dục hay của người làm giáo dục. Socrates dùng một hình ảnh cụ thể hơn để nói rõ vai trò của kẻ làm thầy. Người làm thầy cũng làm công việc tương tự như người hộ sinh (đỡ đẻ). Người đó giúp cho đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ để vào đời chớ người đó không phải là người sanh ra đứa bé.
3. Phương pháp giảng huấn của đức Khổng Tử đòi hỏi phải dựa trên thực tế và có phần thực hành trong việc học chứ không phải chỉ có tính cách lý thuyết suông. Phương pháp đó dùng lối đối thoại, dùng cách hỏi và trả lời giữa trò và thầy khiến cho sự học vấn giáo dục trở nên linh động, gần gũi đi liền với cuộc sống thật sự ở ngoài đời. Với mỗi đệ tử trong mỗi hoàn cảnh, Khổng Tử có câu trả lời khác về cùng một vấn đề, vì phải tùy lúc, tùy người, tùy hoàn cảnh mà có cách giải đáp cho sát với thực tế. Lý thuyết và thực hành cần phải đi đôi với nhau thì cái học mới hữu dụng.
Giáo dục ngày nay còn bao gồm nhiều vấn đề quan trọng khác như vấn đề quản trị, việc phát triển trường sở, thiết lập chương trình học, đào tạo giáo chức, soạn và in sách giáo khoa, tổ chức thi cử và lượng giá, vấn đề tu nghiệp và hội thảo v.v…ngoài những gì liên hệ tới triết lý giáo dục như mục tiêu, đường hướng, phương pháp.
Lẽ dĩ nhiên là ổ thời đại của Khổng Tử có những vấn đề chưa được đặt ra vì việc giáo dục ở thời đại đó chưa có lớn lao, phức tạp như bây giờ. Tuy nhiên với mục tiêu cao cả, đường lối tốt đẹp, phương pháp hữu hiệu, giáo dục của Khổng Tử mang nhiều tính cách nhân bản và khoa học khiến cho người đời sau phải tôn thờ Ngài như bậc thầy của muôn đời “VẠN THẾ SƯ BIỂU”
Ngày đản sanh của đức Khổng Tử có một thời đã được chọn làm ngày biết ơn thầy (teacher’s day) ở Trung Hoa. Giáo dục của đức Khổng Tử mới là giáo dục thật sự có ý nghĩa và làm người thầy trong “nền giáo dục có ý nghĩa đó mới xứng đáng với địa vị  “quân, sư, phụ” vậy.
(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment