II - KHỔNG TỬ CHẤP CHÁNH.
Khổng Tử sinh ra đời
và lớn lên trong xã – hội Trung Hoa thời Xuân Thu (722 – 481
trước Tây lịch). Đây là thời kỳ có chiến
tranh luôn với quân Nhung Địch ở miền Tây Bắc
Trung Hoa và giữa các chư hầu với nhau. Các chư hầu
thôn tính lẫn nhau. Các nước lớn nuốt dần các
nước nhỏ bé. Một số các nước lớn
dần dần trở thành các chư hầu cường thịnh
nên coi thường hay lăm le cạnh tranh với thế
lực trung ương của nhà Chu. Cùng với chiến
tranh loạn lạc bao nhiêu cảnh đảo ngược
trong kỷ cương luân thường cũng bày ra đầy
trong xã hội. Cảnh “tôi giết vua, con giết cha” đã
xảy ra rất thường trong khoảng mấy trăm
năm của thời Xuân Thu. Tư khi nhà Chu dời đô
sang Đông quyền lực trung ương càng ngày càng suy nhược,
tình hình chính trị xã hội càng lung lay suy sụp.
Lớn lên trong hoàn cảnh xã hội
đó, Khổng Tử muốn đem đạo đức
luân lý cải thiện con người cũng như xã hội.
Khổng Tử có chí muốn cải lương chính trị
nên bảo: “Cẩu hữu dụng ngã giả, cơ nguyệt
như dĩ khả dã, tam niên hữu thành”, ý nói nếu có bậc
quân vương nào dùng đến Khổng Tử trong việc
cai trị thì trong một năm Ngài đã có thể sắp đặt
làm cho tình hình khả quan hơn và trong ba năm thì chính sách của
Ngài đã thành tựu vậy. Hoài bảo đem đạo
thánh hiền ra thi hành để cứu đời, đem vương
đạo ra áp dụng vào chánh sách cai trị để làm
cho quốc gia có trật tự và hưng thịnh, và làm cho
thiên hạ được thái bình, là hoài bảo luôn luôn được
Khổng Tử ấp ủ trong lòng. Cho nên năm 50 tuổi
khi họ Công Tôn Phất Nhiểu làm phản ở ấp
Phi, gia thần họ Quý sai người đến triệu
Khổng Tử ra giúp. Khổng Tử đã có ý muốn đi
giúp. Nhưng rồi Ngài lại không đi vì có lời can ngăn
của học trò là thầy Tử Lộ. Sỡ dĩ Khổng
Tử muốn ra giúp Công Tôn Phất Nhiểu vì Ngài nghĩ rằng
: “Vua Văn, vua Vũ ngày xưa cũng khởi sự từ
một tỉnh nhỏ mà làm nên vương nghiệp của
nhà Chu. Ngày nay ấp Phi tuy nhỏ, nhưng cũng cứ thử
xem.” Ngài muốn thử thi hành vương đạo ở
nơi ấp Phi nầy xem như thế nào rồi từ đó
phát triển dần ra trong thiên hạ. Nhưng vì có lời
can ngăn của học trò nên sau cùng Ngài đã bỏ ý định
ra giúp Công Tôn Thất Nhiểu.
Sau đó ít lâu vua Lỗ mời
Khổng Tử giữ chức Trung Đô Tể, cũng giống
như kinh thành Phủ Doãn, tức là như đô trưởng
ngày nay vậy. Khổng Tử nhận lời, và sau một
năm cai trị kinh thành nước Lỗ trở thành nơi
kiểu mẫu khiến nhiều nước láng giềng
ganh tị. Sau khi vua Lỗ băng hà, Ngài được thăng
lên chức Đại Tư Khấu, tức như hình bộ
thượng thư, hay tổng trưởng tư pháp ngày
nay vậy. Ngài ở chức vụ nầy được
bốn năm thì lại được cử làm Nhiếp
Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị
trong nước. Làm ở chức vụ nầy được
7 ngày Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, vốn là một
quan đại phu tham lam gian nịnh nổi tiếng thời
bấy giờ. Sau ba tháng làm việc thì tình hình chính trị được
hoàn thiện, kỷ cương luật lệ phân minh, cảnh
thịnh trị đã bày ra trước mắt. Nước
Tề ở bên cạnh phải xin cầu thân và phải chịu
trả lại ba ấp trước kia Tề đã chiếm
cứ của Lỗ. Nhưng vua Tần trong lòng không muốn
cho nước Lỗ trở nên cường thịnh. Vua Tề
dùng 80 người con gái đẹp đẽ và múa giỏi
cùng với 30 con ngựa tốt dâng cho Lỗ hầu. Từ
đó Lỗ hầu mê say gái đẹp, ngựa hay, bỏ
cả công việc triều chính. Tử Lộ nói với Khổng
Tử : “Thầy trò ra đã đến lúc rút lui rồi.”
Khổng Tử bảo:
“Hãy chờ xem. Sắp đến
ngày tế Nam giao rồi. Nếu nhà vua còn nghĩ đến
chính sự thì trong ngày này nhà vua phải đến để
tự tay mình để xẻ thịt, chia phần cho các
quan. Nếu nhà vua không đến ta sẽ ra đi.”
Quả nhiên Lỗ hầu đã
mê say gái đẹp và ngựa hay đến đổi quên
hết cả việc tế lễ. Thế là hai thầy trò
Khổng Tử và Tử Lộ bèn khăn gói ra đi. Từ
đó Khổng Tử đi chu du thiên hạ suốt mười
mấy năm trời không tìm được nơi nào để
thi hành vương đạo. Một hôm đi qua đất
Khuông, Ngài bị người ta bắt giam vì người ta
tưởng lâm Ngài là Dương Hổ, một kẻ tàn bạo
với dân. Học trò Ngài rất lo sợ, nhưng Khổng
Tử bình thản bảo:
“Từ khi vua Văn Vương
mất đi rồi thì chỉ còn có ta là giữ được
chế độ cũ của chính thể Vương đạo
mà thôi. Nếu ta mất đi thì chế độ đó cũng
sẽ mất. Nếu trời còn muốn bảo tồn chế
độ của tiên vương thì dân Khuông có tài gì mà làm hại
ta được.
Sau đó nhờ có người
can thiệp cho nên Ngài được giải vây để
trở về nước Vệ và lại tiếp tục
con đường chu du thiên hạ. Khi gian thần Phật
Bật nổi loạn ở nước Trịnh, y có mời
Khổng Tử về giúp. Khổng Tử định đi
nhưng Tử Lộ can ngăn, Tử Lộ thưa:
“Ngày xưa trò nầy có được
nghe thầy dạy rằng kẻ nào làm điều bất
thiện thì người quân tử không vào bè đảng của
nó, nay Phất Bật làm phản, như vậy y là kẻ bất
thiện mà thầy lại muốn ra giúp là ý làm sao?”
Khổng Tử đáp:
“Đúng vậy. Ngày xưa ta có
nói như thế. Nhưng ta cũng thường nói rằng:
cái giống bên kia nếu tính chất thật bền thì có mài
cũng không mòn; giống trắng thì dầu có nhuộm cũng
không đen. Vậy nên dầu gần người bất
thiện đi nữa cũng không lây xấu đến ta được
đâu. Vả lại ta sinh ra để làm người hữu
dụng, chớ có phải như trái bầu kia sao cứ
treo đó mà chẳng ăn?”
Tuy nói vậy nhưng Khổng
Tử cũng không đi giúp Phất Bật. Khổng Tử
thấy cái đạo của mình không thực hiện được
vì nó không thể được các nhà thống trị chấp
nhận dù Ngài chỉ có thể được thi thố và
truyền bá rộng rãi khi nào Ngài có được chánh quyền
ở trong tay. Đáng lý Ngài phải làm một cuộc cách mạng
để thực hiện chánh sách cai trị đạo đức
lý tưởng đó. Nhưng vì chủ trương Vương
đạo của Ngài không cho phép Ngài đứng ra làm cách mạng
được.
Ngày kia khi ở nước Vệ
Khổng Tử ngồi gõ khánh
ở trong nhà. Một người ẩn sĩ gánh cỏ đi
ngang, nghe tiếng khánh của Khổng Tử bèn nói:
“Người đánh khánh có bụng
sốt sắng với đời nhiều lắm vậy.
Nhưng người ấy bỉ lậu thay, dụng tâm quá
nhiều. Đời chẳng có ai biết đến mình
thì nên thôi đi…phải chăm chước tùy thời mới
được.”
Nghe vậy Khổng Tử bèn
tự bảo: “Quyết định quên đời chẳng
có khó gì đâu.” Đối với Ngài, việc xoay lưng lại
xã hội, quên cuộc đời để sống yên thân đâu
phải là chuyện khó làm. Chính thái độ dấn thân vào
đời, đem hết tinh thần để phụng sự
cho loài người, làm cho cuộc đời tốt đẹp
lương thiện hơn mới là điều khó. Khổng
Tử đã chọn con đường khó khăn đó.
Một hôm khác, khi đi chu du
sang nước Sái, Khổng Tử thấy hai người đang
cày ruộng. Đó là hai bậc ẩn sĩ là Tràng Thư và
Kiệt Nịch, Khổng Tử bảo Tử Lộ đến
hỏi thăm đường. Tràng Thư hỏi Tử Lộ:
-Người
cầm cương trên xe kia là ai vậy?
Tử Lộ trả lời:
-Đây
là ông Khổng Khâu (tức là Khổng Tử)
-Có phải
là Khổng Khâu nước Lỗ không?
-Thưa
phải.
-Ông ấy
chu du đã lâu để dạy Đạo cho đời, hẳn
là đã biết đường rồi, đâu còn phải
hỏi ai nữa.
Tử Lộ lại hỏi Kiệt
Nịch. Kiệt Nịch hỏi lại Tử Lộ:
-Anh là
ai?
Tử Lộ bảo:
-Tôi là
Trọng Do
Kiệt Nịch lại hỏi:
-Anh là
học trò của Khổng Khâu nước Lỗ phải không?
Tử Lộ đáp:
-Thưa
phải.
Kiệt Nịch bèn nói:
- Đời loạn đã lâu,
cuộc đời cuồn cuộn như giòng nước
chảy mãi không thôi. Làm sao mà đổi loạn ra trị được?
Anh đi theo Khổng Tử là kẻ tị nhân (là kẻ bị
người đời xa lánh) sao bằng đi theo ta là người
tị thế (tức là người xa lánh cuộc đời)
có phải hơn không?
Nghe Tràng Thư và Kiệt Nịch
nói vậy Khổng Tử than: “Người không thể cùng đàng
với điểu thú được, Người mà không cùng
ở với xã hội loài người thì ở với ai?
Nếu như thiên hạ đã có đạo rồi thì Khổng
Khâu nầy đâu còn phải dấn thân lo đổi loạn
ra trị làm gì nữa!”
Thương thay cho người
có ý muốn dấn thân giúp đời như Khổng Tử!
Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem lý
người tưởng đạo đức vào địa
hạt chính trị để cho vương đạo được
phổ cập trong thế giới loài người!
Lý tưởng của Khổng
Tử, hoài bảo và ý hướng của Ngài, thật là tốt
đẹp. Nhưng Ngài đã thất bại một cách rất
đáng thương bởi thực tế chính trị ở
ngoài đời, nhất là ở thời ly loạn kỷ cương
đổ nát, văn hóa suy đồi, không thể nào chấp
nhận để cho đạo đức chen vào. Làm chính
trị là phải nắm cho được và phải giữ
cho được chính quyền ở trong tay bằng bất
cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì
dù có phải hy sinh xương máu của bao nhiêu người
khác. Đó là cách làm chính trị để thống trị của
những kẻ gọi là thành công trên chính trường. Loại
chính trị thống trị đó dĩ nhiên khó mà hội nhập
tinh thần đạo đức vào trong. Có ai dùng lòng nhân,
dùng chữ nghĩa, chữ tín để đoạt được,
cướp lấy, và giữ vững chính quyền thống
trị được đâu? Ngược lại chính trị
thống trị thường phải bao gồm nhiều ác
tính từ sự độc ác, mưu mô, gian xảo, tham
lam, tráo trở, đến thủ đoạn, xuyên tạc,
bóp méo, láo khoét , độc tài, chèn ép, dụ dỗ, ném đá
dấu tay…
Trong hoàn cảnh chiến tranh
loạn lạc thời Xuân Thu, giữa khí thế chính trị
thống trị đang hoành hành, Khổng Tử đã không
thành công trong lý tưởng đem đạo đức vào
trong chính trị. Chủ trương Vương đạo
của Khổng Tử đã không được các nhà thống
trị đương thời dùng đến. Khổng Tử
đã thất bại trong cuộc đời làm chính trị
của Ngài.
III - KHỔNG TỬ VỚI CHỦ
TRƯƠNG CHÍNH DANH.
Thầy Tử Lộ hỏi đức
Khổng Tử:
-Nếu
vua nước Vệ mời Thầy làm chính trị, thì thầy
làm điều gì trước nhất?
Tình trạng của nước
Vệ lúc nầy đang suy đồi. Trước câu hỏi
của thầy Tử Lộ, đức Khổng Tử trả
lời:
-Trước
hết là phải chính danh chăng?
Và Khổng Tử giải thích
thêm:
-Vì nếu
danh không chính thì lời nói sẽ không thuận, mà lời nói
không thuận thì việc làm ắt sẽ không thành.
-Nhưng
chính danh là gì?
-Danh là
một cái tên mà người dùng để gọi một vật
hay một hạng người nào.
Cái điện thoại, cây bút…là
những danh xưng chúng ta gán cho vật dụng. Ông vua, ông
thầy, ông cha, ông quan…là những danh xưng chúng ta dùng để
gọi một hạng người nào đó trong xã hội.
Danh thường đi liền với phận, tức là bổn
phận, nhiệm vụ. Chúng ta dùng danh xưng ông vua để
gọi cái người có bổn phận phải cai trị
dân chúng, lo cho dân chúng được no cơm ấm áo, dạy
dỗ dân chúng để dân chúng tiến bộ, sống xứng
đáng với địa vị con người v.v…Chính danh
luôn luôn gắn liền với định phận, để
cho mọi người, với cái danh xưng đúng, có một
vị trí đúng, có những bổn phận rõ gắn liền
với danh xưng đó.
Khi Tề cảnh Công hỏi đức
Khổng Tử về chánh sách cai trị, đức Khổng
Tử trả lời:
-Quân nhân,
thần thần, phụ phụ, tử tử.
Câu nầy có nghĩa là “vua phải
ra vua” tức là làm đúng bổn phận hay đúng vai trò của
ông vua. Quan phải ra quan tức phải làm đúng bổn
phận của ông quan. Cha phải ra cha tức là khi làm cha
mình phải đóng đúng vai trò của người cha. Và
con phải cho ra con tức phải làm hết bổn phận
của một người ở địa vị làm con.
Tề Cảnh Công nghe Khổng
Tử nói xong vội khen:
-Phải
lắm. Nếu vua mà không ra vua, bề tôi không ra bề tôi,
cha không ra cha, con không ra con, thì cương thường đỗ
nát, trật tự xáo trộn,
thiên hạ đâu có thanh bình, dù có lúa thóc người
ta cũng không ngồi yên mà ăn được.
Cho nên đối với Khổng
Tử, muốn cho xã hội có trật tự, mọi việc
đâu ra đó, mọi người đều phải giữ
đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận tương
xứng với danh xưng của mình. Chính danh định
phận là như vậy.
Về sau có người đặt
vấn đề như sau với thầy Mạnh Tử.
Người đó nói:
-Châu Văn
Vương vốn là bề tôi của Trụ Vương.
Châu Văn Vương đã nổi lên đánh giết Trụ
Vương để lập nên nhà Châu. Bề tôi mà giết
vua thì có đáng tội hay không? Tại sao nhà nho đã không kết
tội Châu Văn Vương mà lại còn tôn sùng Châu Văn
Vương xem như bậc thánh nhân?
Áp dụng thuyết chính danh định
phận của Khổng Tử thầy Mạnh Tử trả
lời người đó rằng:
-Ta nghe
nói Châu Văn Vương có giết một kẻ thất
phu tên là Trụ chớ ta chưa hề nghe nói có giết vua
bao giờ.
Theo thầy Mạnh Tử, Trụ
Vương không đáng được gọi là vua, ông ta
chỉ là một kẻ thất phu. Gọi ông ta là vua là danh
không chính rồi. Tại sao? Vì Trụ Vương, khi ở
ngôi vị ông vua, đã không làm trọn đạo một người
làm vua. Làm vua, theo nho giáo, là người thay trời để
trị dân. Trời thương dân như con đẻ, thì
người làm vua, người thay trời để lo cho
dân, cũng phải thương dân như con đẻ. Thương
dân, lo cho dân, đem bình an trật tự lại cho xã hội,
làm cho người dân được thái bình no cơm ấm
áo, đó là bổn phận của nhà vua đối với
thần dân. Khi lên ngôi, vua Trụ đã không làm tròn sứ mạng
cao quí đó. Ông ta chỉ là một kẻ tàn ác, bạo ngược,
ngồi trên ngai vàng để hà hiếp, áp bức, làm khổ,
giết hại dân lành mà thôi chớ không hề làm được
một việc tốt đẹp nào đáng được
xem là thay trời để lo cho dân.
Đã không đóng được
vai trò đúng của một nhà vua, tất nhiên Trụ Vương
chỉ được coi như một kẻ thất phu,
tàn bạo. Ông ta sẽ bị truất phế, sẽ bị
trừng trị xứng đáng với những tội lỗi
mà ông đã gây ra, sẽ bị thay thế bởi một người xứng đáng hơn.
Người đó là Châu Văn Vương, một người
đã được trời lựa chọn để thay
ý trời lo cho dân.
Thật sự, đối với
nhà nho, trời không ở đâu xa, trời rất gần dân.
Nhà nho bảo lòng trời là lòng dân, cái gì người dân muốn
là trời muốn. Thành ra trời với dân chỉ là một.
Dân là trời vậy.
Đối với chúng ta ngày
nay, tư tưởng “chính danh định phận” còn có giá
trị gì chăng ngoài giá trị lịch sử của nó. Một
số người ngày nay, thấm nhuần tư tưởng
tự do tiến bộ của Tây Phương, thường
xem luận lý Khổng Mạnh như những sợi dây trói
buộc con người không cho phép cá nhân được phát
triển toàn vẹn, không cho con người đựơc
tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân mình.
Sống với Tam Cương
Ngũ Thường, con người chỉ còn là một kẻ
lúc nào cũng bị chi phối bởi những bổn phận
đối với người khác, mà không còn là một con
người sống cho tình cảm tự nhiên và hạnh phúc
cá nhân của mình nữa. Lúc nào người ta cũng chỉ
là một bề tôi, bắt buộc phải trung thành, phải
làm theo răm rắp mệnh lệnh của nhà vua. Và là một
người con bắt buộc phải làm tròn chữ hiếu
với cha mẹ, phải nghe theo cha mẹ, sống theo ý muốn
của cha mẹ mà thôi, chớ không hề được sống
cho cá nhân mình. Luân lý khắt khe của Khổng Mạnh dường
như đã không chừa chỗ nào cho cá nhân con người được sống thật sự
nữa. Con người lúc nào cũng bị chìm đắm
trong các bổn phận nặng nề của hai chữ
trung hiếu mà thôi. Địa vị của người phụ
nữ lại còn tệ hại hơn khi họ phải giữ
đúng tam tùng, tức là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng
phu, và phu tử tòng tử. Lệ thuộc ở ông chồng,
phải giữ sự trinh tiết, phải tròn cả hiếu
trung, người phụ nữ trong xã hội nhà nho, quả
đã chẳng còn gì để sống cho riêng cá nhân mình nữa.
Thật ra, nhà nho, ở thời
Khổng Mạnh, không đến nỗi khắt khe đến
vô lý như vậy. Nhà nho đặt ra bổn phận, nhưng
bổn phận cho tất cả mọi người, chớ
không riêng cho những kẻ yếu kém. Có bổn phận của
bề tôi nhưng cũng có bổn phận cho ông vua. Có bổn
phận cho kẻ làm con thì cũng có bổn phận cho kẻ
làm cha vậy. Nhà nho bảo: “Quân xử thần tử, thần
bất tử bất trung” nghĩa là khi nhà vua bảo mình chết
thì mình phải tuân theo lệnh vua mà chết, nếu không thì
mình sẽ mang tội bất trung. Nhưng nhà vua phải thế
nào thì bề tôi mới phải giữ được lòng
trung thành tuyệt đối như vậy. Cho nên nhà nho bảo
“quân chánh” thì thần mới trung. Cũng như “phụ” phải
“từ” thì “tử” mới “hiếu”. Phải là nhà vua đạo
đức, ngay thẳng, công bằng, biết thương
biết lo cho dân, biết làm hết bổn phận của
nhà vua, thì mới mong có bề tôi làm tròn bổn phận của
bề tôi đối với vua được. Người
làm cha cũng vậy, cũng phải trọn đạo làm
cha thì mới mong con mình đóng trọn địa vị làm
con hiếu thảo.
Trong ý nghĩa đó tư tưởng
chính danh địa phận vẫn có giá trị đối
với chúng ta ngày nay. Trên phương diện chính trị
chẳng hạn, một chánh quyền, bao gồm những
người cầm quyền cai trị trong một nước,
cho xứng đáng với danh xưng của nó, phải có bổn
phận lo cho người dân, bảo vệ người dân.
Phát triển quốc gia, làm cho đời sống của người
dân được ấm no hạnh phúc. Nếu người
cầm quyền không làm đựơc việc đó, hay làm
ngược lại lòng dân, thì chánh quyền đó sẽ bị
coi như không xứng đáng với danh xưng chính quyền
theo thuyết chính danh. Một chánh quyền mà danh không chánh,
thì lời nói của chánh quyền đó sẽ không có hiệu
quả. Một nhóm người cai trị bạo ngược,
có thể dùng sức mạnh để đàn áp, cưỡng
bức, hà hiếp, đày ải, giết chóc người dân
làm cho đời sống của người dân phải nghèo
đói, khốn khổ, nhóm người đó không xứng đáng
với danh xưng chính quyền đối với người
dân. Không thật sự thương dân, không lo cho dân mà còn dùng
những biện pháp cai trị trái với lòng dân thì chánh quyền
đó không thể được xem là chánh quyền đúng
với danh xưng của nó nữa. Đó chỉ là những
kẽ thất phu cướp quyền mà thôi.
Ở các nước dân chủ
thật sự thì loại người cướp quyền
như vậy sẽ dễ dàng bị thay thế bởi những
người xứng đáng hơn qua lá phiếu của người
dân, qua các cuộc bầu cử bằng, dân chủ, tự
do chọn lựa người lo cho mình đâu. Những kẻ
cướp quyền cai trị bao giờ cũng đi đến
một bạo quyền, một chính thể độc tài,
tàn bạo, dùng mọi hình thức kềm kẹp, áp bức
để cai trị trong những trường hợp như
vậy người dân không còn dùng được lá phiếu
để nói lên nguyện vọng của mình nữa. Ở
trường hợp này chỉ có cách là có người lãnh đạo
nhân dân nổi lên lật đổ cường quyền giống
như Châu Văn Vương nổi dậy lật đổ
Trụ Vương vậy thôi.
Lẽ dĩ nhiên là đối
với các loại vũ khí tối tân hiện nay, và với
màn lưới công an, cảnh sát đựơc tổ chức
một cách qui mô chặt chẽ ngày nay của các bạo quyền,
cuộc nổi dậy của người dân không dễ dàng
xảy ra như xưa được. Ngày xưa sự chênh
lệch về tình trạng trang bị vũ khí giữa bạo
quyền với dân chúng không có bao nhiêu, nhưng ngày nay sự
chênh lệch đó vô cùng to lớn. Tuy nhiên khó khăn không có
nghĩa là không thể xảy ra được. Sự nổi
dậy của người dân dù khó khăn đến đâu
vẫn có thể xảy ra và bạo quyền dù có mạnh đến
thế nào rồi cũng có ngày sụp đổ.
Trước đây, trước
thập niên 1990, có ai nghĩ rằng sẽ có cuộc nổi
dậy của người dân (hay những người lãnh
đạo mới của nhân dân) lật đổ cường
quyền cộng sản ở Liên Bang Sô Viết đâu. Thế
mà chuyện đó vẫn xảy ra được. Vã lại
sự nổi dậy không có nghĩa là nổi dậy không có
nghĩa là nổi dậy với gươm giáo, súng đạn
mà thôi, mà còn có trăm ngàn hình thức khác. Những hình thức
nổi dậy khác có thể từ tiêu cực đến
tích cực, có thể từ sự bất hợp tác đến
mĩa mai, chưởi rủa, khinh khi, châm biếm, phá hoại,
đảo chánh v.v… đến những sự cầu cứu,
hợp tác với những sức mạnh bên ngoài để
tấn công mặt kinh tế, gây áp lực về mặt
chính trị v.v…Cuộc nổi dậy do đó có thể xảy
ra bằng hình thức này hay hình thức khác.
Tóm lại, hoặc giả là
chính quyền phải sữa chữa, phải thật tâm làm
việc cho dân, phải làm hết bổn phận đối
với người dân để xứng danh chính quyền,
hoặc giả tiếp tục chính sách bạo ngược,
tàn hại dân chúng, để một ngày nào đó bị dân
chúng nổi dậy lật đổ dưới hình thức
này hay hình thức khác. Trên phương diện chính trị,
tư tưởng chính danh định phận vẫn là một
tư tưởng có giá trị đối với chúng ta ngày
nay vậy.
Ở các địa vị khác
cũng thế. Từ gia đình đến xã hội, mỗi
hạng người đều có bổn phận tương
xứng với danh xưng của mình. Mọi người ở
trong vị trí nào hãy làm đúng bổn phận mình trong vị
trí đó để được xứng đáng với cái
danh xưng của mình. Làm thầy thì phải biết thương
yêu lo lắng dạy dỗ cho học trò để cho học
trò có cơ hội kính nể thương yêu thầy và làm
tròn bổn phận học hành của học trò. Nếu thầy
chỉ thấy có đồng lương, làm công việc dạy
dỗ một cách tắc trách, xem học trò như kẻ thù,
thì thầy đó không xứng đáng để được
gọi là thầy nữa. Trong gia đình cha phải hết
bổn phận của cha đối với con cái để
con cái có thể theo đó mà trọn đạo làm con.
Định phận là nói rõ bổn
phận của mỗi người và chính danh nghĩa là gọi
đúng danh xưng của mỗi người tương xứng
với bổn phận của họ. Chính danh định
phận luôn luôn đi đôi gắn liền nhau.
No comments:
Post a Comment