Monday, August 19, 2013

KHỔNG GIÁO (2)

II - KHỔNG TỬ CHẤP CHÁNH.
Khổng Tử sinh ra đời và lớn lên trong xã – hội Trung Hoa thời Xuân Thu (722 – 481 trước Tây lịch). Đây là thời kỳ có chiến tranh luôn với quân Nhung Địch ở miền Tây Bắc Trung Hoa và giữa các chư hầu với nhau. Các chư hầu thôn tính lẫn nhau. Các nước lớn nuốt dần các nước nhỏ bé. Một số các nước lớn dần dần trở thành các chư hầu cường thịnh nên coi thường hay lăm le cạnh tranh với thế lực trung ương của nhà Chu. Cùng với chiến tranh loạn lạc bao nhiêu cảnh đảo ngược trong kỷ cương luân thường cũng bày ra đầy trong xã hội. Cảnh “tôi giết vua, con giết cha” đã xảy ra rất thường trong khoảng mấy trăm năm của thời Xuân Thu. Tư khi nhà Chu dời đô sang Đông quyền lực trung ương càng ngày càng suy nhược, tình hình chính trị xã hội càng lung lay suy sụp.
Lớn lên trong hoàn cảnh xã hội đó, Khổng Tử muốn đem đạo đức luân lý cải thiện con người cũng như xã hội. Khổng Tử có chí muốn cải lương chính trị nên bảo: “Cẩu hữu dụng ngã giả, cơ nguyệt như dĩ khả dã, tam niên hữu thành”, ý nói nếu có bậc quân vương nào dùng đến Khổng Tử trong việc cai trị thì trong một năm Ngài đã có thể sắp đặt làm cho tình hình khả quan hơn và trong ba năm thì chính sách của Ngài đã thành tựu vậy. Hoài bảo đem đạo thánh hiền ra thi hành để cứu đời, đem vương đạo ra áp dụng vào chánh sách cai trị để làm cho quốc gia có trật tự và hưng thịnh, và làm cho thiên hạ được thái bình, là hoài bảo luôn luôn được Khổng Tử ấp ủ trong lòng. Cho nên năm 50 tuổi khi họ Công Tôn Phất Nhiểu làm phản ở ấp Phi, gia thần họ Quý sai người đến triệu Khổng Tử ra giúp. Khổng Tử đã có ý muốn đi giúp. Nhưng rồi Ngài lại không đi vì có lời can ngăn của học trò là thầy Tử Lộ. Sỡ dĩ Khổng Tử muốn ra giúp Công Tôn Phất Nhiểu vì Ngài nghĩ rằng : “Vua Văn, vua Vũ ngày xưa cũng khởi sự từ một tỉnh nhỏ mà làm nên vương nghiệp của nhà Chu. Ngày nay ấp Phi tuy nhỏ, nhưng cũng cứ thử xem.” Ngài muốn thử thi hành vương đạo ở nơi ấp Phi nầy xem như thế nào rồi từ đó phát triển dần ra trong thiên hạ. Nhưng vì có lời can ngăn của học trò nên sau cùng Ngài đã bỏ ý định ra giúp Công Tôn Thất Nhiểu.

Sau đó ít lâu vua Lỗ mời Khổng Tử giữ chức Trung Đô Tể, cũng giống như kinh thành Phủ Doãn, tức là như đô trưởng ngày nay vậy. Khổng Tử nhận lời, và sau một năm cai trị kinh thành nước Lỗ trở thành nơi kiểu mẫu khiến nhiều nước láng giềng ganh tị. Sau khi vua Lỗ băng hà, Ngài được thăng lên chức Đại Tư Khấu, tức như hình bộ thượng thư, hay tổng trưởng tư pháp ngày nay vậy. Ngài ở chức vụ nầy được bốn năm thì lại được cử làm Nhiếp Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị trong nước. Làm ở chức vụ nầy được 7 ngày Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, vốn là một quan đại phu tham lam gian nịnh nổi tiếng thời bấy giờ. Sau ba tháng làm việc thì tình hình chính trị được hoàn thiện, kỷ cương luật lệ phân minh, cảnh thịnh trị đã bày ra trước mắt. Nước Tề ở bên cạnh phải xin cầu thân và phải chịu trả lại ba ấp trước kia Tề đã chiếm cứ của Lỗ. Nhưng vua Tần trong lòng không muốn cho nước Lỗ trở nên cường thịnh. Vua Tề dùng 80 người con gái đẹp đẽ và múa giỏi cùng với 30 con ngựa tốt dâng cho Lỗ hầu. Từ đó Lỗ hầu mê say gái đẹp, ngựa hay, bỏ cả công việc triều chính. Tử Lộ nói với Khổng Tử : “Thầy trò ra đã đến lúc rút lui rồi.”
Khổng Tử bảo:
 “Hãy chờ xem. Sắp đến ngày tế Nam giao rồi. Nếu nhà vua còn nghĩ đến chính sự thì trong ngày này nhà vua phải đến để tự tay mình để xẻ thịt, chia phần cho các quan. Nếu nhà vua không đến ta sẽ ra đi.”
Quả nhiên Lỗ hầu đã mê say gái đẹp và ngựa hay đến đổi quên hết cả việc tế lễ. Thế là hai thầy trò Khổng Tử và Tử Lộ bèn khăn gói ra đi. Từ đó Khổng Tử đi chu du thiên hạ suốt mười mấy năm trời không tìm được nơi nào để thi hành vương đạo. Một hôm đi qua đất Khuông, Ngài bị người ta bắt giam vì người ta tưởng lâm Ngài là Dương Hổ, một kẻ tàn bạo với dân. Học trò Ngài rất lo sợ, nhưng Khổng Tử bình thản bảo:
“Từ khi vua Văn Vương mất đi rồi thì chỉ còn có ta là giữ được chế độ cũ của chính thể Vương đạo mà thôi. Nếu ta mất đi thì chế độ đó cũng sẽ mất. Nếu trời còn muốn bảo tồn chế độ của tiên vương thì dân Khuông có tài gì mà làm hại ta được.
Sau đó nhờ có người can thiệp cho nên Ngài được giải vây để trở về nước Vệ và lại tiếp tục con đường chu du thiên hạ. Khi gian thần Phật Bật nổi loạn ở nước Trịnh, y có mời Khổng Tử về giúp. Khổng Tử định đi nhưng Tử Lộ can ngăn, Tử Lộ thưa:
“Ngày xưa trò nầy có được nghe thầy dạy rằng kẻ nào làm điều bất thiện thì người quân tử không vào bè đảng của nó, nay Phất Bật làm phản, như vậy y là kẻ bất thiện mà thầy lại muốn ra giúp là ý làm sao?”
Khổng Tử đáp:
“Đúng vậy. Ngày xưa ta có nói như thế. Nhưng ta cũng thường nói rằng: cái giống bên kia nếu tính chất thật bền thì có mài cũng không mòn; giống trắng thì dầu có nhuộm cũng không đen. Vậy nên dầu gần người bất thiện đi nữa cũng không lây xấu đến ta được đâu. Vả lại ta sinh ra để làm người hữu dụng, chớ có phải như trái bầu kia sao cứ treo đó mà chẳng ăn?”
Tuy nói vậy nhưng Khổng Tử cũng không đi giúp Phất Bật. Khổng Tử thấy cái đạo của mình không thực hiện được vì nó không thể được các nhà thống trị chấp nhận dù Ngài chỉ có thể được thi thố và truyền bá rộng rãi khi nào Ngài có được chánh quyền ở trong tay. Đáng lý Ngài phải làm một cuộc cách mạng để thực hiện chánh sách cai trị đạo đức lý tưởng đó. Nhưng vì chủ trương Vương đạo của Ngài không cho phép Ngài đứng ra làm cách mạng được.
Ngày kia khi ở nước Vệ Khổng Tử  ngồi gõ khánh ở trong nhà. Một người ẩn sĩ gánh cỏ đi ngang, nghe tiếng khánh của Khổng Tử bèn nói:
“Người đánh khánh có bụng sốt sắng với đời nhiều lắm vậy. Nhưng người ấy bỉ lậu thay, dụng tâm quá nhiều. Đời chẳng có ai biết đến mình thì nên thôi đi…phải chăm chước tùy thời mới được.”
Nghe vậy Khổng Tử bèn tự bảo: “Quyết định quên đời chẳng có khó gì đâu.” Đối với Ngài, việc xoay lưng lại xã hội, quên cuộc đời để sống yên thân đâu phải là chuyện khó làm. Chính thái độ dấn thân vào đời, đem hết tinh thần để phụng sự cho loài người, làm cho cuộc đời tốt đẹp lương thiện hơn mới là điều khó. Khổng Tử đã chọn con đường khó khăn đó.
Một hôm khác, khi đi chu du sang nước Sái, Khổng Tử thấy hai người đang cày ruộng. Đó là hai bậc ẩn sĩ là Tràng Thư và Kiệt Nịch, Khổng Tử bảo Tử Lộ đến hỏi thăm đường. Tràng Thư hỏi Tử Lộ:
-Người cầm cương trên xe kia là ai vậy?
Tử Lộ trả lời:
-Đây là ông Khổng Khâu (tức là Khổng Tử)
-Có phải là Khổng Khâu nước Lỗ không?
-Thưa phải.
-Ông ấy chu du đã lâu để dạy Đạo cho đời, hẳn là đã biết đường rồi, đâu còn phải hỏi ai nữa.
Tử Lộ lại hỏi Kiệt Nịch. Kiệt Nịch hỏi lại Tử Lộ:
-Anh là ai?
Tử Lộ bảo:
-Tôi là Trọng Do
Kiệt Nịch lại hỏi:
-Anh là học trò của Khổng Khâu nước Lỗ phải không?
Tử Lộ đáp:
-Thưa phải.
Kiệt Nịch bèn nói:
- Đời loạn đã lâu, cuộc đời cuồn cuộn như giòng nước chảy mãi không thôi. Làm sao mà đổi loạn ra trị được? Anh đi theo Khổng Tử là kẻ tị nhân (là kẻ bị người đời xa lánh) sao bằng đi theo ta là người tị thế (tức là người xa lánh cuộc đời) có phải hơn không?
Nghe Tràng Thư và Kiệt Nịch nói vậy Khổng Tử than: “Người không thể cùng đàng với điểu thú được, Người mà không cùng ở với xã hội loài người thì ở với ai? Nếu như thiên hạ đã có đạo rồi thì Khổng Khâu nầy đâu còn phải dấn thân lo đổi loạn ra trị làm gì nữa!”
Thương thay cho người có ý muốn dấn thân giúp đời như Khổng Tử! Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem lý người tưởng đạo đức vào địa hạt chính trị để cho vương đạo được phổ cập trong thế giới loài người!
Lý tưởng của Khổng Tử, hoài bảo và ý hướng của Ngài, thật là tốt đẹp. Nhưng Ngài đã thất bại một cách rất đáng thương bởi thực tế chính trị ở ngoài đời, nhất là ở thời ly loạn kỷ cương đổ nát, văn hóa suy đồi, không thể nào chấp nhận để cho đạo đức chen vào. Làm chính trị là phải nắm cho được và phải giữ cho được chính quyền ở trong tay bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì dù có phải hy sinh xương máu của bao nhiêu người khác. Đó là cách làm chính trị để thống trị của những kẻ gọi là thành công trên chính trường. Loại chính trị thống trị đó dĩ nhiên khó mà hội nhập tinh thần đạo đức vào trong. Có ai dùng lòng nhân, dùng chữ nghĩa, chữ tín để đoạt được, cướp lấy, và giữ vững chính quyền thống trị được đâu? Ngược lại chính trị thống trị thường phải bao gồm nhiều ác tính từ sự độc ác, mưu mô, gian xảo, tham lam, tráo trở, đến thủ đoạn, xuyên tạc, bóp méo, láo khoét , độc tài, chèn ép, dụ dỗ, ném đá dấu tay…
Trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc thời Xuân Thu, giữa khí thế chính trị thống trị đang hoành hành, Khổng Tử đã không thành công trong lý tưởng đem đạo đức vào trong chính trị. Chủ trương Vương đạo của Khổng Tử đã không được các nhà thống trị đương thời dùng đến. Khổng Tử đã thất bại trong cuộc đời làm chính trị của Ngài.
                                                                                               
III - KHỔNG TỬ VỚI CHỦ TRƯƠNG CHÍNH DANH.       
Thầy Tử Lộ hỏi đức Khổng Tử:
-Nếu vua nước Vệ mời Thầy làm chính trị, thì thầy làm điều gì trước nhất?
Tình trạng của nước Vệ lúc nầy đang suy đồi. Trước câu hỏi của thầy Tử Lộ, đức Khổng Tử trả lời:
-Trước hết là phải chính danh chăng?
Và Khổng Tử giải thích thêm:
-Vì nếu danh không chính thì lời nói sẽ không thuận, mà lời nói không thuận thì việc làm ắt sẽ không thành.
-Nhưng chính danh là gì?
-Danh là một cái tên mà người dùng để gọi một vật hay một hạng người nào.
Cái điện thoại, cây bút…là những danh xưng chúng ta gán cho vật dụng. Ông vua, ông thầy, ông cha, ông quan…là những danh xưng chúng ta dùng để gọi một hạng người nào đó trong xã hội. Danh thường đi liền với phận, tức là bổn phận, nhiệm vụ. Chúng ta dùng danh xưng ông vua để gọi cái người có bổn phận phải cai trị dân chúng, lo cho dân chúng được no cơm ấm áo, dạy dỗ dân chúng để dân chúng tiến bộ, sống xứng đáng với địa vị con người v.v…Chính danh luôn luôn gắn liền với định phận, để cho mọi người, với cái danh xưng đúng, có một vị trí đúng, có những bổn phận rõ gắn liền với danh xưng đó.
Khi Tề cảnh Công hỏi đức Khổng Tử về chánh sách cai trị, đức Khổng Tử trả lời:
-Quân nhân, thần thần, phụ phụ, tử tử.
Câu nầy có nghĩa là “vua phải ra vua” tức là làm đúng bổn phận hay đúng vai trò của ông vua. Quan phải ra quan tức phải làm đúng bổn phận của ông quan. Cha phải ra cha tức là khi làm cha mình phải đóng đúng vai trò của người cha. Và con phải cho ra con tức phải làm hết bổn phận của một người ở địa vị làm con.
Tề Cảnh Công nghe Khổng Tử nói xong vội khen:
-Phải lắm. Nếu vua mà không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cương thường đỗ nát, trật tự xáo trộn,  thiên hạ đâu có thanh bình, dù có lúa thóc người ta cũng không ngồi yên mà ăn được.
Cho nên đối với Khổng Tử, muốn cho xã hội có trật tự, mọi việc đâu ra đó, mọi người đều phải giữ đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận tương xứng với danh xưng của mình. Chính danh định phận là như vậy.
Về sau có người đặt vấn đề như sau với thầy Mạnh Tử. Người đó nói:
-Châu Văn Vương vốn là bề tôi của Trụ Vương. Châu Văn Vương đã nổi lên đánh giết Trụ Vương để lập nên nhà Châu. Bề tôi mà giết vua thì có đáng tội hay không? Tại sao nhà nho đã không kết tội Châu Văn Vương mà lại còn tôn sùng Châu Văn Vương xem như bậc thánh nhân?
Áp dụng thuyết chính danh định phận của Khổng Tử thầy Mạnh Tử trả lời người đó rằng:
-Ta nghe nói Châu Văn Vương có giết một kẻ thất phu tên là Trụ chớ ta chưa hề nghe nói có giết vua bao giờ.
Theo thầy Mạnh Tử, Trụ Vương không đáng được gọi là vua, ông ta chỉ là một kẻ thất phu. Gọi ông ta là vua là danh không chính rồi. Tại sao? Vì Trụ Vương, khi ở ngôi vị ông vua, đã không làm trọn đạo một người làm vua. Làm vua, theo nho giáo, là người thay trời để trị dân. Trời thương dân như con đẻ, thì người làm vua, người thay trời để lo cho dân, cũng phải thương dân như con đẻ. Thương dân, lo cho dân, đem bình an trật tự lại cho xã hội, làm cho người dân được thái bình no cơm ấm áo, đó là bổn phận của nhà vua đối với thần dân. Khi lên ngôi, vua Trụ đã không làm tròn sứ mạng cao quí đó. Ông ta chỉ là một kẻ tàn ác, bạo ngược, ngồi trên ngai vàng để hà hiếp, áp bức, làm khổ, giết hại dân lành mà thôi chớ không hề làm được một việc tốt đẹp nào đáng được xem là thay trời để lo cho dân.
Đã không đóng được vai trò đúng của một nhà vua, tất nhiên Trụ Vương chỉ được coi như một kẻ thất phu, tàn bạo. Ông ta sẽ bị truất phế, sẽ bị trừng trị xứng đáng với những tội lỗi mà ông đã gây ra, sẽ bị thay thế bởi một  người xứng đáng hơn. Người đó là Châu Văn Vương, một người đã được trời lựa chọn để thay ý trời lo cho dân.
Thật sự, đối với nhà nho, trời không ở đâu xa, trời rất gần dân. Nhà nho bảo lòng trời là lòng dân, cái gì người dân muốn là trời muốn. Thành ra trời với dân chỉ là một. Dân là trời vậy.
Đối với chúng ta ngày nay, tư tưởng “chính danh định phận” còn có giá trị gì chăng ngoài giá trị lịch sử của nó. Một số người ngày nay, thấm nhuần tư tưởng tự do tiến bộ của Tây Phương, thường xem luận lý Khổng Mạnh như những sợi dây trói buộc con người không cho phép cá nhân được phát triển toàn vẹn, không cho con người đựơc tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân mình.
Sống với Tam Cương Ngũ Thường, con người chỉ còn là một kẻ lúc nào cũng bị chi phối bởi những bổn phận đối với người khác, mà không còn là một con người sống cho tình cảm tự nhiên và hạnh phúc cá nhân của mình nữa. Lúc nào người ta cũng chỉ là một bề tôi, bắt buộc phải trung thành, phải làm theo răm rắp mệnh lệnh của nhà vua. Và là một người con bắt buộc phải làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, phải nghe theo cha mẹ, sống theo ý muốn của cha mẹ mà thôi, chớ không hề được sống cho cá nhân mình. Luân lý khắt khe của Khổng Mạnh dường như đã không chừa chỗ nào cho cá nhân con người  được sống thật sự nữa. Con người lúc nào cũng bị chìm đắm trong các bổn phận nặng nề của hai chữ trung hiếu mà thôi. Địa vị của người phụ nữ lại còn tệ hại hơn khi họ phải giữ đúng tam tùng, tức là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, và phu tử tòng tử. Lệ thuộc ở ông chồng, phải giữ sự trinh tiết, phải tròn cả hiếu trung, người phụ nữ trong xã hội nhà nho, quả đã chẳng còn gì để sống cho riêng cá nhân mình nữa.
Thật ra, nhà nho, ở thời Khổng Mạnh, không đến nỗi khắt khe đến vô lý như vậy. Nhà nho đặt ra bổn phận, nhưng bổn phận cho tất cả mọi người, chớ không riêng cho những kẻ yếu kém. Có bổn phận của bề tôi nhưng cũng có bổn phận cho ông vua. Có bổn phận cho kẻ làm con thì cũng có bổn phận cho kẻ làm cha vậy. Nhà nho bảo: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là khi nhà vua bảo mình chết thì mình phải tuân theo lệnh vua mà chết, nếu không thì mình sẽ mang tội bất trung. Nhưng nhà vua phải thế nào thì bề tôi mới phải giữ được lòng trung thành tuyệt đối như vậy. Cho nên nhà nho bảo “quân chánh” thì thần mới trung. Cũng như “phụ” phải “từ” thì “tử” mới “hiếu”. Phải là nhà vua đạo đức, ngay thẳng, công bằng, biết thương biết lo cho dân, biết làm hết bổn phận của nhà vua, thì mới mong có bề tôi làm tròn bổn phận của bề tôi đối với vua được. Người làm cha cũng vậy, cũng phải trọn đạo làm cha thì mới mong con mình đóng trọn địa vị làm con hiếu thảo.
Trong ý nghĩa đó tư tưởng chính danh địa phận vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay. Trên phương diện chính trị chẳng hạn, một chánh quyền, bao gồm những người cầm quyền cai trị trong một nước, cho xứng đáng với danh xưng của nó, phải có bổn phận lo cho người dân, bảo vệ người dân. Phát triển quốc gia, làm cho đời sống của người dân được ấm no hạnh phúc. Nếu người cầm quyền không làm đựơc việc đó, hay làm ngược lại lòng dân, thì chánh quyền đó sẽ bị coi như không xứng đáng với danh xưng chính quyền theo thuyết chính danh. Một chánh quyền mà danh không chánh, thì lời nói của chánh quyền đó sẽ không có hiệu quả. Một nhóm người cai trị bạo ngược, có thể dùng sức mạnh để đàn áp, cưỡng bức, hà hiếp, đày ải, giết chóc người dân làm cho đời sống của người dân phải nghèo đói, khốn khổ, nhóm người đó không xứng đáng với danh xưng chính quyền đối với người dân. Không thật sự thương dân, không lo cho dân mà còn dùng những biện pháp cai trị trái với lòng dân thì chánh quyền đó không thể được xem là chánh quyền đúng với danh xưng của nó nữa. Đó chỉ là những kẽ thất phu cướp quyền mà thôi.
Ở các nước dân chủ thật sự thì loại người cướp quyền như vậy sẽ dễ dàng bị thay thế bởi những người xứng đáng hơn qua lá phiếu của người dân, qua các cuộc bầu cử bằng, dân chủ, tự do chọn lựa người lo cho mình đâu. Những kẻ cướp quyền cai trị bao giờ cũng đi đến một bạo quyền, một chính thể độc tài, tàn bạo, dùng mọi hình thức kềm kẹp, áp bức để cai trị trong những trường hợp như vậy người dân không còn dùng được lá phiếu để nói lên nguyện vọng của mình nữa. Ở trường hợp này chỉ có cách là có người lãnh đạo nhân dân nổi lên lật đổ cường quyền giống như Châu Văn Vương nổi dậy lật đổ Trụ Vương vậy thôi.
Lẽ dĩ nhiên là đối với các loại vũ khí tối tân hiện nay, và với màn lưới công an, cảnh sát đựơc tổ chức một cách qui mô chặt chẽ ngày nay của các bạo quyền, cuộc nổi dậy của người dân không dễ dàng xảy ra như xưa được. Ngày xưa sự chênh lệch về tình trạng trang bị vũ khí giữa bạo quyền với dân chúng không có bao nhiêu, nhưng ngày nay sự chênh lệch đó vô cùng to lớn. Tuy nhiên khó khăn không có nghĩa là không thể xảy ra được. Sự nổi dậy của người dân dù khó khăn đến đâu vẫn có thể xảy ra và bạo quyền dù có mạnh đến thế nào rồi cũng có ngày sụp đổ.
Trước đây, trước thập niên 1990, có ai nghĩ rằng sẽ có cuộc nổi dậy của người dân (hay những người lãnh đạo mới của nhân dân) lật đổ cường quyền cộng sản ở Liên Bang Sô Viết đâu. Thế mà chuyện đó vẫn xảy ra được. Vã lại sự nổi dậy không có nghĩa là nổi dậy không có nghĩa là nổi dậy với gươm giáo, súng đạn mà thôi, mà còn có trăm ngàn hình thức khác. Những hình thức nổi dậy khác có thể từ tiêu cực đến tích cực, có thể từ sự bất hợp tác đến mĩa mai, chưởi rủa, khinh khi, châm biếm, phá hoại, đảo chánh v.v… đến những sự cầu cứu, hợp tác với những sức mạnh bên ngoài để tấn công mặt kinh tế, gây áp lực về mặt chính trị v.v…Cuộc nổi dậy do đó có thể xảy ra bằng hình thức này hay hình thức khác.
Tóm lại, hoặc giả là chính quyền phải sữa chữa, phải thật tâm làm việc cho dân, phải làm hết bổn phận đối với người dân để xứng danh chính quyền, hoặc giả tiếp tục chính sách bạo ngược, tàn hại dân chúng, để một ngày nào đó bị dân chúng nổi dậy lật đổ dưới hình thức này hay hình thức khác. Trên phương diện chính trị, tư tưởng chính danh định phận vẫn là một tư tưởng có giá trị đối với chúng ta ngày nay vậy.
Ở các địa vị khác cũng thế. Từ gia đình đến xã hội, mỗi hạng người đều có bổn phận tương xứng với danh xưng của mình. Mọi người ở trong vị trí nào hãy làm đúng bổn phận mình trong vị trí đó để được xứng đáng với cái danh xưng của mình. Làm thầy thì phải biết thương yêu lo lắng dạy dỗ cho học trò để cho học trò có cơ hội kính nể thương yêu thầy và làm tròn bổn phận học hành của học trò. Nếu thầy chỉ thấy có đồng lương, làm công việc dạy dỗ một cách tắc trách, xem học trò như kẻ thù, thì thầy đó không xứng đáng để được gọi là thầy nữa. Trong gia đình cha phải hết bổn phận của cha đối với con cái để con cái có thể theo đó mà trọn đạo làm con.
Định phận là nói rõ bổn phận của mỗi người và chính danh nghĩa là gọi đúng danh xưng của mỗi người tương xứng với bổn phận của họ. Chính danh định phận luôn luôn đi đôi gắn liền nhau.

No comments:

Post a Comment