Monday, August 19, 2013

KHỔNG GIÁO (tiep va het)

IV - LUÂN THƯỜNG CỦA KHỔNG TỬ.
Khổng giáo thật ra không phải là một tôn giáo theo đúng nghĩa của chữ. Đối với các nhà tư tưởng học, Khổng giáo chỉ là một triết lý sống, và trong triết lý đó, phần đạo đức là phần được chú trọng tới nhiều nhất. Triết lý của Khổng Tử là triết lý về cuộc sống của con người, cuộc sống thực tế ở trên thế gian nầy. Những vấn đến siêu hình, thượng đế, linh hồn…ít khi được đặt ra. Con người từ đâu đến, hoặc sau khi chết, con người sẽ đi về đâu cũng không được bàn đến, chỉ cuộc sống hiện tại, cuộc sống ngay bây giờ của con người ở trên thế giới này mới được nói đến một cách có hệ thống. Đó là đối tượng chính trong triết học của Khổng giáo.
Trong cuộc sống hiện tại, không phải tất cả mọi vấn đề quan trọng của cuộc sống con người đều được Khổng Tử bàn đến. Khổng Tử chỉ chú trọng nhiều vào khía cạnh bổn phận mà thôi, nhất là bổn phận của kẻ dưới đối với người trên như bề tôi đối với vua, con cái đối với cha mẹ, hay vợ đối với chồng chẳng hạn. Người trên cũng có bổn phận của người trên, nhưng những bổn phận đó xét kỹ không có gì nặng nề như bổn phận khá khắt khe những người ở dưới. Quyền làm người cũng như quyền của cá nhân không thấy nói được nói đến. Đối với Khổng Tử, nếu người trên nghĩ đến cái lợi cho mình thì kẻ dưới cũng chỉ nghĩ đến cái lợi mà thôi, và nếu mọi người đều nghĩ đến cái lợi của riêng mình thì xã hội sẽ suy đồi, hư hỏng hết. Do vậy, Khổng Tử chỉ nói đến bổn phận mà thôi. Ngài bảo “phóng lợi nhi hành đa oán.” có nghĩa là kẻ nào chỉ làm lợi thì ắt sinh ra oán thù. Quân tử và tiểu nhân khác nhau ở hành vi vị lợi hay vị nghĩa. Khổng Tử bảo: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi.” Người quân tử chỉ lo làm việc nghĩa trong khi kẻ tiểu nhân chỉ nhắm vào những việc làm có lợi mà thôi. Lợi ở đây là lợi cho cá nhân, cho bản thân mình. Bổn phận của con người, trong hệ thống luân lý của Khổng giáo, đựơc thu gọn vào hai chữ LUÂN THƯỜNG.

Luân là mối liên hệ giữa người và người. Sống ở đời là sống cùng người khác chứ không thể sống  một mình được. Khi sinh ra đời, ta đã có cha mẹ, đã có một gia đình, đã phải sống  trong một cộng đồng, một xã hội loài người. Chúng ta chỉ có thể hiện hữu trong gia đình và trong xã hội đã có sẵn đó. Sống với người khác ở xung quanh tất nhiên phải có mối quan hệ với những người khác đó, từ những người trong gia đình đến những người ngoài xã hội. Trong gia đình ta có mối liên hệ giữa vợ chồng, và mối liên hệ giữa bạn bè với nhau hoặc giữa các đồng nghiệp hay các cộng sự viên… Mỗi mối liên hệ như vậy là một luân, và trong hệ thống luân lý Khổng Giáo, có tất cả năm mối liên hệ như vậy, gọi là ngũ luân, kể ra như sau:
Liên hệ vua tôi (quân thần)
Liên hệ cha con (phụ tử)
Liên hệ vợ chồng (phu phụ)
Liên hệ anh em (côn đệ)
Liên hệ bạn bè (bằng hữu)
Trong mỗi mối liên hệ trên đây nhà nho đặt ra một tiêu chuẩn đạo đức để hướng dẫn hành động và tư tưởng của con người làm thế nào để cho mối liên hệ đó được tốt đẹp. Chính thật ra, Khổng Tử không nêu ra tiêu chuẩn đó, nhưng các nhà kho khác đã nêu ra cho nên có sự bất đồng. Về mối liên hệ vua tôi chẳng hạn, tiêu chuẩn đạo đức được đặt ra  là “quân nghĩa, thần hành” theo sách Tả Truyện, nhưng tiêu chuẩn đạo đức đó lại là “quân nhân, thần trung” đối với sách Lễ vận, trong khi Mạnh Tử thì lại bảo: “quân thần hữu nghĩa”. Đối với một số nhà nho khác thì tiêu chuẩn đạo đức trong liên hệ quân thần là “quân chánh thần trung”. Hiểu một cách rộng rãi thì trong mối liên  hệ giữa vua và tôi nhà nho đòi hỏi nhà vua phải dùng nhân nghĩa và sự ngay thẳng đối xử với bề tôi, và bề tôi phải dùng lòng trung thành và sự tuân hành đối xử với vua. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây là vua nhân nghĩa chính trực, bề tôi tuân theo mệnh lệnh và trung thành với vua.
Về mối liên hệ cha con, thì tiêu chuẩn đặt ra trong hai sách Tả Truyện và Lễ Vận là “phụ từ tử hiếu”, riêng Mạnh Tử thì bảo “phụ tử hữu thân”. Đối với đa số các nhà nho thì phụ từ từ hiếu là tiêu chuẩn đạo đức tốt nhất cho liên hệ cha con. Cha mẹ thương con, lo lắng cho con, nuôi nấng dạy dỗ cho con nên người; con  nhớ ơn cha mẹ, hiếu thảo với cha mẹ, đó là tiêu chuẩn đạo đức cho mối liên hệ gia đình.
Về mối liên hệ vợ chồng, sách Lễ Văn ghi “phu nghĩa, phụ kính” nhưng sách Mạch Tử thì bảo “phu phụ hữu biệt”. Đối với đa số các nhà nho thì người phụ nữ không có đời sống riêng tư mà phải tùy thuộc ở những người khác. Lúc chưa có chồng thì sống với cha mẹ, cuộc sống lúc này thì phải tùy thuộc ở cha mẹ. Khi có chồng thì phải theo chồng, cuộc sống từ đó phải tùy thuộc ở nơi ông chồng. Khi chồng chết rồi thì sống với con, lúc này thì cuộc sống lại tùy thuộc ở nơi con. Ba liên hệ tùy thuộc đó được gọi là tam tùng bao gồm “tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.” Liên hệ tùy thuộc thứ nhì là xuất giá tùng phu đã phần nào nói lên bổn phận của người đối với vợ chồng trong hệ thống luân lý nho giáo. Vợ phải nghe theo chồng, trinh thuận và trung thành với chồng, lo lắng phụng sự cho chồng, đó là những bổn phận mà nhà nho đã vạch ra cho người phụ nữ khi đã có chồng. Ngược lại, chồng phải có “nghĩa” đối với vợ. Nghĩa là gì? Là lẽ phải, là cái gì đúng và tốt thì gọi là nghĩa như nghĩa cử, nghĩa hiệp, nghĩa khí…Người Mỹ hay dùng chữ correctness hoặc righteousness để dịch chữ nghĩa trong hệ thống luân lý của nhà nho. Chồng phải lấy sự đúng và tốt mà đối xử với vợ.
Ba liên hệ vua tôi, cha con và vợ chồng là ba liên hệ quan trọng nhất trong ngũ luân. Nhà nho còn gọi đó là ba giềng mối chính tức “tam cương”, trong đạo làm người. Tam cương là quân thần cương, phụ tử cương và phu thê cương. Cương là sợi dây chính, sợi dây lớn làm cái giềng để mắc những sợi dây nhỏ vào đó làm thành cái lưới. Ông vua được xem như sợi dây chính đó để các bề tôi và thần dân như những sợi dây nhỏ mắc vào đó mà làm thành cái lưới. Quân vi thần cương là vậy. Cũng cùng ý nghĩa đó, nhà nho bảo phụ vi tử cương và phu vi thê cương.
Hai mối liên hệ còn lại trong ngũ luân là liên hệ anh em, và liên hệ bạn bè. Về liên hệ anh em, sách Tả Truyện ghi là “huynh ái, đệ kính” trong khi sách Lễ Vận thì bảo “huynh lương, đệ đễ”. Hiểu một cách rộng rãi thì bậc anh chị phải thương yêu đối xử tốt với các em, và các em phải thương yêu kính trọng anh chị.
Con người sống ở trên đời này không thể tránh được những mối liên hệ mà nho giáo đã nói đến. Đối với phần đông nếu không nói là hầu hết chúng ta ai cũng phải có bạn bè hay người quen biết, và đối với số đông ai cũng phải làm vợ làm chồng, làm cha làm mẹ. Đóng vai nào thì phải có những bổn phận trong vai trò đó như thuyết chính danh của Khổng Tử đã cho thấy. Những tiêu chuẩn đạo đức của nhà nho đề ra cho các bổn phận đó được thu gọn vào một số chữ thường thấy sau đây: nhân, nghĩa, từ, ái, kính, trung, hiếu, dễ, tín. Những chữ này diễn tả những đặc tính, những phẩm hạnh cần có ở nơi mỗi người. Muốn cho những mối liên hệ trong ngũ luân được tốt đẹp, mỗi người cần phải làm tròn bổn phận của mình. Muốn làm tròn những bổn phận đó còn người cần phải có (hay phải trau dồi) một số những đức tính nào đó. Số đức tính đó được thu gọn vào những chữ sau đây: nhân, nghĩa, lể, trí, tín. Năm chữ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đó được nhà nho gọi là ngũ thường. Thường là cái gì phải có luôn luôn, cái hằng có như cái áo mình mặc ở trong người hằng ngày vậy. Ngũ thường là năm đức tính cần phải có luôn luôn ở mỗi người.
Đứng đầu trong năm đức tính đó là lòng NHÂN. Đây là chữ rất quan trọng trong triết lý của Khổng Tử.
Nhân là đức tính quan trọng vào bậc nhất trong số năm đức tính của ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Chữ nhân theo phương pháp chiết tự, gồm có chữ nhân là người và chữ nhị là hai. Ý nghĩa của chữ nhân là thú tình cảm mà con người phải có để đối xử với người khác. Tình cảm đó là tình thương gây ra bởi sự hiểu biết, thông cảm nhau đưa đến lòng vị tha. Sống ở đời người ta phải chấp nhận sự hiện hữu cũng như sự khác biệt của tha nhân. Chấp nhận tha nhân, hiểu biết tha nhân, thương và đối xử một cách tốt đẹp, đó là lòng nhân, là đức tính nền tảng của con người trong sự sống chung với người khác ở trên đời này. Tuy nhiên, lòng nhân theo đức Khổng Tử, không giống như tính phiếm ái hay từ bi bác ái của các triết thuyết tôn giáo khác. Phiếm ái hay bác ái là yêu thương tất cả mọi người kể cả kẻ thù của mình, cho nên cái hệ luận của chủ trương đó là “lấy ân báo oán” như chúng ta thường nghe nói. Đối với Khổng Tử nếu mình lấy ân để báo oán thì đối với người ân mình lấy gì để báo? Nếu kẻ gây oán cũng được hưởng ân như như kẻ đã làm ân thì còn đâu sự công bằng. Do đó Khổng Tử chủ trương: “Dĩ trực báo oán, dĩ đức báo đức”, tức là lấy sự ngay thẳng chính trực mà báo oán, và lấy đức báo oán.
Lòng nhân ở trong triết lý Nho giáo, hiểu theo nghĩa biết người khác, thông cảm và thương người khác, đưa đến một luật đạo đức tiêu cực là “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” tức là cái gì mình không muốn thì đừng làm điều đó cho người khác. Tiêu cực vì nó chỉ khuyên mình “đừng làm” những cái “không thích” mà thôi. Nó thiếu khía cạnh tích cực là “hãy làm cho người khác những gì mình thích người khác làm cho mình.”
Dù là tiêu cực, chủ trương trên đây cũng cho thấy là mình phải đối xử với người khác giống như mình đối xử với chính mình vậy. Đó là lòng nhân. Nó là cái gốc, cái căn bản trong đạo làm người, cho nên Khổng Tử mới nói trong sách Trung Dung là “nhân giả, nhân giả” , tức là đạo nhân là đạo làm người vậy.
Sau đức tính “nhân” là đức tính “nghĩa”. Nghĩa là đúng, là phải, là tốt. Người Mỹ hay dùng chữ correctness hay righteusness để dịch chữ nghĩa. Nó là sự biểu hiện của lòng nhân trong cuộc sống của con người.Chúng ta thường nói vợ chồng ăn ở với nhau cho có “nghĩa”, hoặc ở cho có “nhân nghĩa”, tức là có sự hiểu biết thương yêu nhau, đối xử với nhau cho đúng, cho phải lẽ, cho tốt đẹp. Ở trường hợp vợ chồng, hay anh em, bạn, chữ “nghĩa” còn bao hàm ý nghĩa “thủy chung”, tức là trước sau như một, không hề đổi thay lòng dạ. Đối xử với anh em, bạn bè, vợ hay chồng, lúc nào cũng đúng, cũng phải lẽ, cũng tốt, lúc giàu có cũng vậy mà khi nghèo khổ sa cơ thất thế cũng vậy, thì đó là thủy chung, đó là nghĩa vậy.
Sau chữ nghĩa là chữ lễ. Lễ bao gồm những luật lệ, những quy tắc hướng dẫn cử chỉ và hành động của con người trong mọi trường hợp, làm thế nào cho phải cho đúng phép, từ những nghi thức cúng tế, những cung cách xử sự trong triều đình, đến phép lịch sự xã giao ở ngoài đời. Nói chung là những phép tắc, những qui luật về hành vi và cử chỉ và lời nói của con người trong mọi trường hợp từ trong nhà đến xã hội. Nó cũng là một hình thức biểu lộ khác của lòng nhân cho nên Khổng Tử bảo “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”, tức là thắng được cá nhân mình để làm theo đúng phép tắc luật lệ, đó là nhân vậy.
Trí hiểu một cách nôm na là bộ óc của con người. Nó là sự hiểu biết, sự ý  thức về chân lý. Hiểu rộng ra “trí” có thể được xem như đời sống trí thức (vie intellectuelle) của con người bao gồm tất cả các chức năng tâm lý như suy luận, phán đoán, trí tuệ…Trong hệ thống triết lý của Khổng Tử, chữ trí không những chỉ sự hiểu biết mà còn có ý nghĩa là khôn khéo, thấu đáo, hiểu xa biết rộng. Nhờ có đức tính này mà con người có thể biết được sự thật, nhận đựơc chân lý, phân biệt đựơc phải trái tốt xấu, để hướng hành động của mình đến chỗ tốt đẹp.
Tín là lòng tin. Nói đúng và làm đúng, giữ đúng lời nói của mình để cho người để cho người khác tin được ở nơi mình, đó là chữ tín. Hứa với ai điều gì thì phải giữ đúng lời hứa đó như vậy về sau người ta mới có thể tin mình được. Nếu mình hứa hay nói một điều mà mình lại làm khác hơn thì làm sao người ta còn có thể tin được nơi mình. Giữ được chữ tín là điều rất khó, nhưng người ta phải cố gắng giữ cho được nó bởi nó vô cùng quan trọng trong cuộc sống chung của con người trong xã hội này.
Năm đức tính vừa lược thuật trên đây là năm đức tính mà Khổng Tử muốn con người phải có để có thể sống chung với nhau làm cho đời sống cá nhân, gia đinh và xã hội được tốt đẹp. Muốn cho gia đình và xã hội được tốt đẹp thì năm mối liên hệ trong ngũ luân phải được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn đạo đức đề ra, và muốn thực hiện được những tiêu chuẩn đạo đức đó, thì mỗi cá nhân phải trau dồi cho có được năm đức tính cần có của ngũ thường.
Ý nghĩa của luân thường trong Khổng giáo là như vậy. Mục đích của luân thường rất tốt, rất thực tế. Nó nhắm vào việc làm thế nào để mỗi cá nhân con người được tốt, để có một gia đình tốt, và một xã hội loài người tốt. Nhưng tốt ở đây chỉ có nghĩa là không xấu mà thôi. Nhiều triết gia cho rằng hệ thống luân lý của Khổng Tử chỉ chú trọng vào phía tiêu cực mà thôi chứ ít khi nhìn về phía tích cực.
Nó tiêu cực ở chỗ chỉ nhắm vào bổn phận chứ không nhắm vào quyền vào làm người. Nó còn tiêu cực ở chỗ chỉ khuyên người ta đừng làm những cái xấu nhiều hơn là khuyên người ta nên làm những cái tốt. Gia đình và xã hội tốt của Khổng Tử có thể là một gia đình có lễ nghi, có trật tự, một xã hội không có chiến tranh và loạn lạc, không có áp bức, không có tham nhũng, không có xáo trộn nhưng nó mang ý nghĩa tích cực của một gia đình hạnh phúc, một xã hội phát triển tiến bộ và hùng mạnh.
Nhưng dù có tiêu cực đi nữa, đạo lý luân thường của Khổng Tử vẫn có nhiều giá trị thực tế đối với cuộc sống hiện tại của con người. Năm mối liên hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè tuy không bao quát được tất cả mọi liên hệ giữa người và người trên thế gian này nhưng nó cũng bao gồm được những mối dây liên hệ chính rất  quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Liên hệ vua tôi có thể hiểu rộng ra để bao gồm cả người lãnh đạo và người được lãnh đạo, người chỉ huy và người được chỉ huy, người ra lệnh và người tuân hành, chủ nhân và công nhân…Liên hệ cha con thì hiểu là liên hệ giữa cha mẹ và con cái kể cả dâu rể.  Liên hệ bạn bè thì có thể mở rộng đến những cộng sự viên, những người lân cận, những người láng giềng, những đồng nghiệp…Hiểu rộng như vậy thì ngũ luân có thể bao gồm hầu hết các mối liên hệ giữa người và người trên cõi đời này. Tiêu chuẩn đạo đức cho mỗi mối dây liên hệ có thể được thay đổi cho thích hợp với đời sống của con người ở ngưỡng cửa thế kỷ XXI hơn.
Đến như ngũ thường thì quả thật đáng được chúng ta làm sống lại để cho con người có những đức tính cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp và lành mạnh. Chữ nhân, chữ nghĩa, chữ tín là những chữ cần phải trau dồi và áp dụng ở trên đời, nhất là cho những người có ít nhiều quyền lực ở trong tay.
Không có lòng nhân, những kẻ cầm quyền có thể chỉ là những kẻ bạo tàn, dùng mọi biện pháp phi nhân để kềm kẹp người dân, bắt buộc người dân phải sống khổ sở mà phục vụ cho bạo quyền. Không có nghĩa, kẻ cầm quyền chỉ nhìn thấy có cái lợi cho cá nhân mà thôi. Kẻ đó chỉ có thể nhũng lạm quyền thế, chiếm công vi tư, tham lam hối lộ vơ vét của dân, làm giàu trên xương máu của đồng bào. Không có chữ tín, chánh quyền chỉ là một bọn láo khoét, hứa một đường làm một nẻo, khiến cho dân chán ghét, mất hết lòng tin. Nói là đi học tập mười ngày để rồi đem giam người ta bao nhiêu năm tháng, chánh quyền như vậy thì còn ai tin được?
Người cầm quyền mà không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì thật là một tai họa cho những người bị trị vậy.
Nguon:  http://namkyluctinh.org/ntliem/ntliem-khonggiao.htm

No comments:

Post a Comment