Ý niệm đại học
Tác giả | Karl Jaspers |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt |
Lĩnh vực | Khoa học - Giáo dục |
Dịch giả | Hà Vũ Trọng & Mai Sơn |
Năm xuất bản | 2013 |
Đơn vị xuất bản | Nxb Hồng Đức & ĐH Hoa Sen |
Bui Van Nam Son
Ý NIỆM ĐẠI HỌC
NHƯ MỘT GIÁ TRỊ CỐT LÕI
NHƯ MỘT GIÁ TRỊ CỐT LÕI
I
“Ý niệm đại học” là cách dịch tinh tường và tinh tế nhan đề tác phẩm nổi tiếng của Karl Jaspers[1]. Bởi, “Idee/Idea”
ở đây không có nghĩa đơn giản là “ý tưởng”, theo nghĩa là “suy nghĩ”
hay “ý kiến” nào đó về đại học. Jaspers, một trong những triết gia hàng
đầu của thế kỷ 20, đã cố ý sử dụng thuật ngữ “Ý niệm” tiêu biểu của bậc
tiền bối là Immanuel Kant để chỉ Nguyên tắc của lý tính, lý tưởng để
vươn tới tuy không bao giờ đạt được trọn vẹn, như ngôi sao Bắc đẩu dẫn
đường cho kẻ lữ hành. Vâng, theo Jaspers, quả có một Ý niệm về
đại học, và Ý niệm này (xin viết hoa để phân biệt!) là Tinh thần sống
động, là Hồn của đại học. Nhưng, một khi phải bàn về “Ý niệm đại học” là
mặc nhiên thú nhận rằng Ý niệm ấy đang bị xem nhẹ, ánh sáng dẫn đường
ấy đang bị lu mờ, hồn cốt ấy đang phai nhạt và có nguy cơ tan biến.
Tương lai cho nền đại học đã bị sa đọa như thế phụ thuộc vào sự khôi phục Tinh thần nguyên thủy. Jaspers thừa biết rằng con đường trở về lại với thời cổ điển là vô vọng, nhưng một sự tái tạo
theo tinh thần của Humboldt trong những điều kiện kinh tế-xã hội mới mẻ
là cần thiết, và, hơn thế, là có thể làm được. Theo Jaspers, đại học
hiện đại đứng trước sự chọn lựa: “hoặc thành công trong việc giữ vững
nền đại học (…) bằng sự tái sinh của Ý niệm trong nỗ lực kiên quyết hiện
thực hóa một hình thái tổ chức mới, hoặc đại học sẽ cáo chung trong tính chức năng [đơn thuần] của những cơ sở khổng lồ đào tạo những chuyên viên khoa học-kỹ thuật”[2].
Khôi phục nguyên si mô hình đại học cổ điển của Humboldt là bất khả
thi, bởi Ý niệm không phải là cái gì tĩnh tại và đã hoàn tất, độc lập
với sự phát triển của bản thân Tinh thần và thoát ly khỏi những hoàn
cảnh xã hội nhất định. Vì thế, tái sinh Ý niệm phải đi liền với sự đổi mới nó. Có những yêu sách truyền thống vẫn còn giá trị, nhưng, mặt khác, phải phù hợp với những hoàn cảnh mới.
Câu hỏi lập tức đặt ra: “Ý niệm” ấy là gì? Và tại sao nền đại học hiện
đại - nói riêng là đại học Đức, đối tượng trực tiếp của Jaspers trong
sách này - lại xa rời Ý niệm của nó? Đâu là những nguyên nhân bên trong
và bên ngoài? Nếu không giải đúng những câu hỏi này, cương lĩnh “hồi
sinh và đổi mới” chỉ là một giấc mơ hão huyền.
Quyển “Ý niệm Đại học” được K. Jaspers biên soạn ở Heidelberg
(Đức) ngay sau Thế Chiến II, sau thảm họa kinh hoàng của bạo lực, khủng
bố, chiến tranh và tội ác diệt chủng. Ông sử dụng bản sơ thảo cùng tên
từ 1923, viết lại và bổ sung nhiều ý tưởng mới trước tình hình nghiêm
trọng: sự tàn phá nền học thuật Đức nói chung và nền đại học Đức nói
riêng của chủ nghĩa quốc xã[3],
cùng với trách nhiệm cá nhân nặng nề của ông trong trọng trách xây dựng
lại Đại học Heidelberg với tư cách là một thành viên lãnh đạo đại học.
Bản thân ông là nạn nhân trực tiếp của chế độ phát xít. Là một triết
gia hàng đầu, ông bị cấm giảng dạy và công bố khoa học vì có vợ gốc Do
Thái. Hai vợ chồng ông may mắn thoát chết vào giờ chót nhờ thành phố
Heidelberg được giải phóng kịp thời. Ông viết: “Những người sống sót
chúng tôi đã không đi tìm cái chết (…). Chúng tôi cố tìm cách để sống
sót. Chính việc chúng tôi sống sót đã là một tội lỗi!”[4].
Lương tâm trí thức đã thúc đẩy Jaspers tìm cách cứu vãn những gì đã bị
chế độ cực quyền tàn phá hầu như tận gốc rễ: sự độc lập tư duy và sự
khách quan khoa học. Đối lập lại với chủ trương chính trị hóa và công cụ
hóa đại học của chủ nghĩa quốc xã, Jaspers đề xướng quan niệm của Kant
về “Ý niệm” theo nghĩa điều hướng, dẫn đạo (regulativ) như là lý tưởng cần vươn tới. Jaspers định nghĩa Ý niệm này là “lòng hiếu tri nguyên thủy”,
và lòng hiếu tri ấy sẽ thể hiện trong việc đi tìm chân lý: trong đại
học, thầy và trò cùng chia sẻ một đam mê, một khát vọng, dù biết rằng đó
là một công cuộc bất tận, thậm chí bất khả, không khác gì của nhân vật
Sysiphus trong thần thoại Hy Lạp. Tác phẩm này, do đó, cần được đọc từ
bối cảnh ra đời đầy bi tráng của nó! Theo Jaspers, công cuộc đi tìm chân
lý ấy triển khai trong bốn lĩnh vực lớn: 1. trong nghiên cứu và giảng
dạy; 2. trong giáo dục và đào luyện (Bildung); 3. trong sự truyền thông
và giao lưu; và, sau cùng, 4. trong tính phổ quát[5].
Đi tìm chân lý bằng khoa học, cho nên nghiên cứu là nền tảng và là
nhiệm vụ cốt lõi của đại học. Và vì sự hiếu tri luôn mong muốn thông báo
đến người khác, nên việc giảng dạy là bộ phận thiết yếu gắn liền với
nghiên cứu. Việc nghiên cứu khoa học - như là nỗ lực không mệt mỏi hướng
đến chân lý - sẽ hình thành một mẫu người đặc biệt: mẫu người
được đào luyện trong “tinh thần khoa học” hay trong “thái độ khoa học”
theo cách nói của ông: “giáo dục đại học là năng lực dẹp bỏ những đánh
giá riêng tư, tùy tiện, dành chỗ cho tri thức khách quan, dẹp bỏ ý muốn
nhất thời, nhường chỗ cho sự phân tích vô tư những sự kiện”. Hướng đến
tính “nhân văn” (Humanitas) trong sự thống nhất giữa nghiên cứu và giảng
dạy, nền giáo dục đúng nghĩa chỉ có thể hình thành trong sự trao đổi ý
kiến “của mọi người với mọi người”, trong sự giao tiếp và truyền thông
giữa người dạy và người học, và luôn trong mối quan hệ với cái toàn bộ,
tức với tính “phổ quát” (Universalität) của các ngành khoa học. Như thế,
theo Jaspers, đại học là sự hợp nhất giữa: “cơ sở nghiên cứu và giảng
dạy, thế giới đào luyện, đời sống truyền thông, vũ trụ của các ngành
khoa học”. Không một lĩnh vực hay khía cạnh nào được tách rời với các
lĩnh vực hay khía cạnh khác, nếu không muốn phá hủy tính toàn bộ của đại
học.
Ý niệm dẫn đạo ấy của Jaspers dẫn đến những hệ quả nào cho đại học, xét
như một định chế? Ở đây, xin giới hạn vào ba điểm cốt yếu: 1. quan niệm
của Jaspers về sự thống nhất mới mẻ của các ngành khoa học; 2. quan hệ
giữa nhân cách và định chế (đại học), và 3. quan hệ giữa đại học và nhà
nước.
Trước khi đi sâu hơn vào phân tích và nhận định, thử tóm lược những ý tưởng cốt lõi của Jaspers về ba điểm nói trên:
1. Theo Jaspers, đại học là nơi “thực hiện năng lực hiếu tri trong
phạm vi rộng lớn nhất của nó từ sự thống nhất các ngành khoa học như một
toàn bộ, do đó, hệ thống phân chia các ngành khoa học cũng như “các
phân khoa” phải có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Theo ông, chính sự
phân hóa “phân khoa triết học” vào thế kỷ 19 thành một bên là phân khoa
toán học-khoa học tự nhiên, và bên kia là phân khoa thuộc “khoa học tinh
thần” (ngày nay gọi là khoa học nhân văn và xã hội”), thêm vào đó là sự
độc lập của các ngành kinh tế học, đã phá vỡ tính thống nhất của đại
học. Trước mắt mọi người, đại học thoái hóa thành một “cửa hàng bách
hóa”, phục vụ tùy theo ý thích của mỗi khách hàng. Lấy năm 1945 (kết
thúc Thế chiến II) làm đường phân thủy, Jaspers nhìn thấy lối thoát cho
kịch bản suy đồi ấy không phải trong việc quay trở lại với quá khứ, trái
lại, trong việc thực hiện một sự thống nhất mới mẻ của đại học. Cơ hội cho sự thống nhất mới mẻ này là việc tích hợp tri thức và năng lực nghiên cứu hiện đại (nhất là của lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ) trong sự mở rộng
đại học như một tiến trình liên tục. Ông tin rằng Ý niệm đại học đòi
hỏi sự “tiếp thu linh động” chất liệu mới và năng lực mới từ bên ngoài
để tiếp tục phát triển bản thân nền khoa học với sự phân ngành tất yếu của nó.
2. Định chế đại học, theo Jaspers, chỉ là “điều kiện” cho việc phát
huy nhân cách của những con người sống và làm việc trong đó. Định chế
“được đánh giá tùy theo việc nó có thể đào tạo nên những nhân cách tốt
đẹp nhất hay không và liệu nó có khả năng đảm bảo những điều kiện tinh
thần cho việc nghiên cứu, truyền thông và giảng dạy”. Tất nhiên, Jaspers
không quá “lý tưởng” đến độ có ảo tưởng trước sự hèn kém về nhân cách
của biết bao thành viên trong đại học, nhất là của những thế lực muốn
khống chế và làm méo mó đại học. Nhưng, với kinh nghiệm xương máu và đầy
tủi nhục của thời kỳ quốc xã, Jaspers muốn nhấn mạnh đến nguy cơ sa đọa
của đại học, đến yêu cầu khẩn thiết của việc phải nhanh chóng vượt bỏ
“sự cuồng tín và mù quáng”, để khôi phục và thúc đẩy “tính nhân văn”, sự
khoan dung và tinh thần “cộng đồng” trong lý tính.
3. Về mối quan hệ giữa đại học và nhà nước, Jaspers nhận ra một sự
tương hỗ luôn căng bức và nghịch lý: đại học vừa thuộc nhà nước
(staatlich), vừa đồng thời, độc lập và không mang tính nhà nước
(staatsfrei). Nó thuộc nhà nước bởi phải phục tùng sự quản lý nhà nước
và cần sự tài trợ mạnh mẽ, nhưng đồng thời không mang tính nhà nước bởi
sự tự trị, tức tự-chịu trách nhiệm trong nghiên cứu, giảng dạy với đầy
đủ các quyền hạn của “hội đoàn” trong việc tổ chức thi cử, cấp bằng và
thu dụng nhân sự.
II
Ta thử đi sâu hơn vào các luận điểm nói trên của Jaspers:
1. Bản chất của khoa học
Ý niệm đại học đặt cơ sở trên “bản chất của khoa học”. Vì, theo
Jaspers, “nơi đâu có việc tìm tòi chân lý vô-điều kiện, ở đó có yêu sách
của con người xét như là con người”. Yêu sách “của con người
xét như là con người” khác về chất với những nguyện vọng và nhu cầu nhất
thời của mỗi cá nhân. “Ý chí cơ bản của con người là dám đi tìm chân lý
vô giới hạn với bất kỳ giá nào”. Bởi, chỉ có như thế mới cho phép con
người đạt tới đỉnh cao trong trải nghiệm về Tồn tại. Thế nào là “trải nghiệm về Tồn tại”? Và đâu là đỉnh cao
có thể vươn tới? Hai câu hỏi chỉ có thể được trả lời một cách bất tận
ngay trong đời sống của đại học! Chính từ việc đi tìm chân lý vô-điều
kiện và vô-giới hạn này, Jaspers đề ra cương lĩnh của đại học: “Đại học
là nơi hiện thực hóa lòng hiếu tri nguyên thủy. Nó không có mục
đích nào khác hơn là trải nghiệm những gì ta có thể biết và những gì ta
sẽ trở thành, thông qua tri thức. Nhiệt tình muốn biết này tự biểu hiện
qua sự quan sát, qua tư duy có phương pháp, và qua sự tự phê phán như
là nỗ lực đào tạo hướng đến tính khách quan. Nhưng đồng thời, cũng là
trải nghiệm không chỉ về những ranh giới, về sự không biết mà cả về
những rủi ro, căng thẳng vốn có trong bất kỳ cuộc tìm kiếm trí tuệ nào.
Tính duy nhất và tính toàn thể là bản chất thực sự của lòng hiếu tri
nguyên thủy. Tuy tính duy nhất và tính toàn thể này bao giờ cũng chỉ
được hiện thực hóa trong những lĩnh vực chuyên môn, nhưng những lĩnh vực
này chỉ có được đời sống tinh thần, khi chúng là những bộ phận của một
cái toàn bộ. Sự hội nhập những ngành khác nhau liên kết thành một vũ trụ,
đạt tới đỉnh điểm trong viễn quan của khoa học hợp nhất, trong thần học
và triết học. Chắc chắn, cái toàn bộ này bao gồm những đối cực nhiều
lần phân rã thành những đối nghịch xung đột và loại bỏ lẫn nhau. Tuy
thế, tính thống nhất của mọi ngành khoa học vẫn tồn tại. Vì, bất chấp sự
đa dạng vô hạn về đối tượng và vấn đề, mọi học giả ít ra đều gắn kết
với nhau trong một thái độ cơ bản, đó là “tính khoa học”.
Sau khi giải thích khái niệm “bản chất khoa học”, Jaspers phân biệt
giữa “khoa học theo nghĩa hẹp” (chỉ các ngành khoa học riêng lẻ như vật
lý, hóa học v.v…) với “khoa học theo nghĩa đích thực hay theo nghĩa
rộng”, khi phản tư về điều kiện khả thể của khoa học, tức về vấn đề vốn
không được đặt ra trong bản thân các khoa học riêng lẻ. Theo đó, khoa
học theo nghĩa hẹp có các hạn chế sau đây:
- “tri thức khoa học về sự vật không phải là tri thức về Tồn tại”.
Các khoa học riêng lẻ cô lập những quan hệ đặc thù khỏi mối quan hệ phổ
biến. Ta không nhận thức được “bản thân Tồn tại” nơi những đối tượng
nhất định, trái lại, chỉ nhận thức được mặt hiện tượng của chúng, vì
những đối tượng của khoa học tự nhiên đều là những hiện tượng trong
khuôn khổ không-thời gian. Chính cái biết mở rộng đến vô tận về những
mối quan hệ tự nhiên sẽ tạo ra “cái biết chắc chắn nhất về cái không
biết”. Do đó, theo Jaspers, sẽ là sai lầm cơ bản khi tin rằng tất cả đều
được giải quyết trong các mối quan hệ “tự nhiên”, tức chỉ được tiếp cận
bởi khoa học tự nhiên.
- “tri thức khoa học không thể mang lại cứu cánh nào cho
đời sống. Nó không đề ra được những giá trị chung quyết”. Những cứu
cánh, nhất là cứu cánh tối hậu như là sự Thiện tối cao, không thuộc về
lĩnh vực khoa học, trái lại, cho thấy có nguồn gốc ngoại lý, siêu lý.
- “khoa học không thể giải đáp cho câu hỏi về ý nghĩa của chính nó”, cũng như không thể phản tỉnh về cơ sở của chính mình.
Vì thế, việc biện minh cho khoa học, theo Jaspers, dễ rơi vào hai thái
cực, thoạt nhìn như trái ngược nhau, nhưng cùng dẫn đến hệ quả cực đoan
như nhau: công cụ hóa khoa học như một phương tiện đơn thuần hoặc tuyệt
đối hóa khoa học như một cứu cánh tự thân. Công cụ hóa hay chức năng hóa
khoa học khi người ta chỉ chờ đợi ở khoa học những giá trị sử dụng nào
đó cho giới lãnh đạo chính trị, cho những ông chủ tư bản hay kể cả cho
“nhân loại” trừu tượng. Đồng thời, Jaspers cảm nhận nguy cơ tiềm ẩn
trong lập trường ngược lại, đó là khoa học như cứu cánh tự thân.
Với tầm nhìn xa, Jaspers dự báo khả năng hoạt động khoa học sẽ “trượt
dài” vào sự vô tận của những khẳng định, vào sự phân tán và tự mãn của
kiến thức chuyên môn, chồng chất những kết quả và không còn quan hệ gì
với ý nghĩa của khoa học và đời sống. Nhà khoa học đòi hỏi sự tự do,
nhưng, theo Jaspers, khi nội hàm của tự do (tức vương quốc của các cứu
cánh và sự Thiện tối cao) bị phai mờ, nó sẽ bị chuyển hóa thành sự tùy
tiện. Và vì kết quả khoa học có giá trị phổ quát, nó hiện diện như tài
sản chung, tha hồ cho các thế lực chính trị và kinh tế khác nhau khai
thác. Đó cũng là lý do tại sao quyền lực nhà nước đã “sẵn lòng” dành
chút ít tự do cho việc nghiên cứu khoa học. Mô hình đại học Humboldt,
theo Jaspers, vô hình trung đã mắc mưu: “khoa học là một cô gái giang
hồ!”. Phương cách nào để nhà khoa học không còn “đánh đĩ” chính mình?
Theo Jaspers, phương cách cứu chữa không gì khác hơn là xác định trở lại
“lòng hiếu tri nguyên thủy”. Khi ta muốn biết một điều gì nhất định, ta đề ra một mục đích, và trong trường hợp ấy, lòng hiếu tri không còn đúng nghĩa là “nguyên thủy” nữa. Cũng không còn là “nguyên thủy” khi nỗ lực hiếu tri được xem như thành tố của lý tưởng giáo dục thuộc về một xã hội hay một giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy, “nguyên thủy” ở đây, theo Jaspers, chỉ có thể là sự “tò mò”,
là lòng khao khát sơ khai muốn nhận diện được cái xa lạ, cái chưa quen
thuộc. Chỉ có sự tò mò không bao giờ thỏa mãn ấy mới khêu gợi một sự
nhận thức sâu xa: sự nhận thức trong “tính nguyên thủy của nó”. Chính lòng hiếu tri mang kích thước “hiện sinh”
ấy mới có thể làm cơ sở cho khoa học: “không một sự hiểu biết riêng lẻ
nào thỏa mãn được tôi; tôi tiến lên phía trước không ngừng nghỉ. Tôi
mong muốn mở rộng tri thức thành cái Toàn bộ”. Nhưng, để sự thôi thúc
“vô-điều kiện” ấy không trở thành mù mờ, khoa học cần một sự “hướng đạo”. Sự hướng đạo ấy đến từ đâu? Với lòng hiếu tri nguyên thủy, sự hướng đạo đến với ta từ bên trong, nhưng lại thông qua “cái Một của Tồn tại”.
Chỉ có “cái Một” này mới mang lại linh hồn cho khoa học. “Linh hồn” này
là gì, theo Jaspers, là điều không thể nói rành mạch. Cái cá biệt,
trong chừng mực là cái cá biệt, cần được nhận thức và tiếp tục tra hỏi.
Nhưng, linh hồn không dừng lại hay tan biến đi trong cái cá biệt, đó
chính là định nghĩa “tiêu cực” đầu tiên về linh hồn này: “từ nỗi bàng
hoàng trước vẻ đẹp và sự hài hòa trong thế giới, khoa học đẩy tôi vào
nỗi sợ hãi trước mọi sự tan vỡ, trước sự vô nghĩa và hủy diệt không thể
giải thích được”. Trong nỗi sợ hãi ấy, con người có được “trải nghiệm hiện sinh”, tức trải nghiệm về “sự bất tri thực sự mà Cái Một như là sự Siêu việt
luôn gián tiếp cho tôi thấy. Sự Siêu việt ấy sẽ là người hướng đạo âm
thầm cho mọi sự hiếu tri của tôi”. Trải nghiệm này mang lại linh hồn và ý
nghĩa cho lòng hiếu tri, nhưng “ý nghĩa này cũng không thể được xác
định một cách thuần lý được”. Nói cách khác, “khoa học không phải là
mảnh đất vững chắc cho tôi yên nghỉ, trái lại, là con đường tôi đi để
xác tín về sự Siêu việt trong hình thức của sự bất an vốn gắn liền với
sự hiếu tri (…) Sự hướng đạo từ cái Một của sự Siêu việt tuyệt nhiên
không rõ ràng, rành mạch. Không ai có thể nắm bắt và sở hữu nó trọn vẹn.
Trái lại, sự Siêu việt chỉ có thể được hiện thực hóa trong hình thái
lịch sử liên tục vươn tới của nhận thức, như một thể nghiệm, một sự dấn
mình mạo hiểm”. Nói theo ngôn ngữ triết học của Jaspers, hiện sinh (Existenz) đột phá sự hiện hữu (Dasein), và, khi sự đột phá này được ý thức, Jaspers gọi là sự “soi sáng hiện sinh”, tức cần đến năng lực của lý tính (Vernunft) để giữ khoảng cách phản tỉnh với hiện hữu, trong khi giác tính (Verstand) giúp ta giải quyết những đòi hỏi thực dụng trong đời sống. Giác tính luôn thỏa mãn khi giải quyết thành công những vấn đề của cuộc sống, trong khi lý tính
là năng lực và động lực để tiếp tục tra hỏi. Tóm lại, chống lại tư duy
“thực chứng” của thời đại và tư duy “vị lợi” trong khoa học, Jaspers
muốn mang lại một kích thước mới: lòng hiếu tri nguyên thủy, vô điều
kiện, có nền tảng sâu xa trong “hiện sinh” của con người.
2. Nhiệm vụ của đại học: “đào luyện đời sống tinh thần”
Trong phần hai của quyển sách, Jaspers suy ra “những nhiệm vụ của đại
học” từ phần trình bày về “bản chất của khọa học”. Trước hết, thử hỏi
người sinh viên chờ đợi gì ở đại học? Sinh viên học một chuyên ngành, họ
chờ đợi những kiến thức chuyên môn được truyền đạt một cách có hệ
thống, được tốt nghiệp để vào đời một cách thuận lợi. Nhưng, theo
Jaspers, sinh viên còn chờ đợi hơn thế: “Con đường đến với khoa học phải
được mở ra cho họ; thế giới và con người ngày càng sáng tỏ với họ, và
cái Toàn bộ phải được trình bày trong một trật tự vô tận như một vũ trụ.
Lao động khoa học – theo đúng Ý niệm về nó – là mang tính tinh thần,
nghĩa là, có quan hệ với toàn bộ cái khả tri”. Nói khác đi, đại học có
ba nhiệm vụ: nghiên cứu, giảng dạy, và quan trọng hơn cả, đào luyện đời sống tinh thần. Sự thống nhất chặt chẽ giữa ba nhiệm vụ tạo nên Tinh thần sống động, mang lại linh hồn và sức sống cho mọi chuyên ngành.
Việc nghiên cứu là sự hợp nhất của ba yếu tố: nắm vững phương pháp, sản
sinh ý tưởng và vun bồi lương tâm trí thức. Cả ba gắn liền với chủ thể
nghiên cứu. Nếu để cho những yếu tố bên ngoài khoa học (như danh vọng,
quyền lực, tiền tài…) chi phối, nhà khoa học sẽ không còn là chủ thể của
tiến trình lao động khoa học nữa. Không còn nhịp đập của trí tuệ và con
tim, đại học sẽ khô héo, hay, nói một cách hình tượng, “chỉ còn ngữ
văn, không còn triết học; chỉ còn thực hành kỹ thuật, không còn lý
thuyết, chỉ có dữ kiện vô tận, nhưng không còn Ý niệm nào”. Lao động
khoa học cần tránh bị thoái hóa thành những kỹ năng vụn vặt, đó là lý do
cần kết hợp giữa nghiên cứu và giảng dạy: “Chỉ ai tự mình nghiên cứu
thì mới giảng dạy một cách đích thực. Nếu không, chỉ là sắp xếp cái đã
biết một cách giáo khoa mà thôi. Trong khi đó, đại học không phải là
trường phổ thông mà là học viện cấp cao (…) Vì thế, đối với nghề nghiệp
đặc biệt này, được đào tạo tốt nhất không phải là được học một tri thức
đã hoàn tất, mà là được đào tạo và phát huy những quan năng của tư duy khoa học. Giữ vai trò quyết định ở đây không phải là sở hữu
điều đã học, mà là năng lực phán đoán và năng lực tra hỏi. Năng lực này
chỉ có được bằng cách tiếp xúc với công việc nghiên cứu sống động”.
Đối với người học, có Ý niệm về tính toàn bộ của chuyên ngành đặc thù
của mình, rồi, nói chung, có Ý niệm về tính toàn bộ của con người hiếu
tri là điều quyết định cho sự nghiệp về sau. Lý do thật dễ hiểu: làm
thầy giáo, thầy thuốc hay quan tòa, ta đều phải làm việc với con người
toàn bộ và với tổng thể những quan hệ của cuộc sống. “Việc đào tạo các
chuyên ngành này sẽ là vô hồn và vô nhân đạo, nếu không hướng đến cái
toàn bộ”. Vì thế, theo Jaspers, việc phá vỡ đại học thành những chuyên
ngành cô lập với nhau là tiền đề - và cũng là hậu quả - của mưu đồ “thu
gom” lao động khoa học để phục vụ cho những mục đích kinh tế-chính trị
vụ lợi nhất thời.
Jaspers đặt cơ sở cho lập luận này từ quan niệm của Kant về phẩm giá. Theo ông, lao động khoa học và thành tựu khoa học có một phẩm giá. Phẩm giá là cái gì vượt lên mọi giá cả: “Trong vương quốc của những mục đích, tất cả đều có một giá cả hoặc một phẩm giá. Có giá cả, khi ta có thể thay thế nó bằng cái gì ngang giá, ngược lại, những gì vượt lên trên mọi giá cả, nghĩa là, không có vật ngang giá, cái ấy là phẩm giá”[6].
Theo Kant, chỉ có đạo đức và con người – trong chừng mực có năng lực
đạo đức – “là duy nhất có được phẩm giá. Còn tài khéo và sự chăm chỉ
trong lao động thì có một giá thị trường”[7]. Sự tự trị, do đó, là cơ sở cho phẩm giá của bản tính con người. Và đại học, theo tên gọi, là universitas, là cái Toàn bộ, là sự Thống nhất hay tính Toàn thể. Đại học bao giờ cũng là universitas generis humani,
là nhân loại hiểu như một nhất thể. Tính người là thiêng liêng: chính
nó mang lại phẩm giá cho từng mỗi cá nhân. Trong ý nghĩ đó, theo
Jaspers, khái niệm “phẩm giá” của Kant hoàn toàn có thể áp dụng vào cho
lao động khoa học, hiểu như việc thực hiện tính người ở cấp độ đậm đặc
nhất.
Bên cạnh sự thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy, Jaspers khẳng định
nguyên tắc thứ hai của đại học là “sự kết hợp giữa nghiên cứu và giảng
dạy với tiến trình đào luyện con người”. “Giáo dục đại học là
tiến trình đào luyện sự tự do đầy thực chất, mà cụ thể là bằng việc tham
gia vào đời sống tinh thần đang diễn ra ở đó”. Sự đào luyện ở đại học,
về bản chất, là tinh thần giáo dục Socrates. Hoạt động khoa học mang
những con người ham hiểu biết lại với nhau, tạo nên một cộng đồng, một
nền “cộng hòa của những học giả”, trong đó chỉ có luận cứ là được xem
trọng, chứ không phải quyền lực hay quyền uy. “Ý nghĩa nguyên thủy của universitas
như là cộng đồng của thầy và trò cũng quan trọng như ý nghĩa của sự
thống nhất mọi ngành khoa học. Trong Ý niệm đại học có sự đòi hỏi về
tính cởi mở toàn diện với nhiệm vụ liên kết không giới hạn, nhằm gián
tiếp tiệm cận cái Một-Toàn bộ”. Điều này không gì khác hơn là sự truyền
thông và giao tiếp rộng rãi giữa những nhà khoa học, nhất là giữa những
nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau. “Ý niệm Đại học không chỉ
cho phép mà còn đòi hỏi tiếp nhận những nhân vật bất đồng và mâu thuẫn
với nhau vào trong lòng mình”.
III
Người đọc ngày nay đến với Ý niệm đại học - sau ngót 70 năm,
với bao nước chảy qua cầu - bằng nhiều cảm xúc pha trộn. Nhiều ý tưởng
thâm thúy, sôi nổi của Jaspers vẫn còn sức hấp dẫn và thuyết phục của
một cương lĩnh giáo dục nhân bản, đầy tính viễn kiến. Nhưng, đối chiếu
với thực tế phàm tục, không ít quan điểm của Jaspers đã tỏ ra quá lạc
quan, thậm chí,… viễn mơ và không tưởng. Tiếc thay, ngay ở những quan
điểm cốt lõi!
- Dự báo của Jaspers về sự mở rộng của đại học, nhất là đối với các
ngành kỹ thuật, đã trở thành hiện thực, nhưng hy vọng của ông về một sự tích hợp
các ngành khoa học dường như còn là điều xa vời. Ý niệm về sự thống
nhất các ngành khoa học, trong thực tế, ngày càng trở nên khả nghi trong
“hoàn cảnh hậu-hiện đại”[8],
khi - như chính Jaspers đã tiên liệu - chỉ có sự cùng tồn tại bình đẳng
và đồng đẳng của nhiều ngành khoa học cạnh tranh với nhau, từ “thiên
văn học và quản trị xí nghiệp, đến triết học và quản lý khách sạn”! Thế
giới hậu-công nghiệp còn mang theo mình ý thức tân-nhân bản hay chỉ đơn
thuần duy kinh tế và duy kỹ thuật? “Tuyên ngôn các khoa học tinh thần”
năm 2005 do hàng loạt giáo sư hàng đầu đề xướng, kêu gọi khôi phục định
hướng liên ngành, kết hợp khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên vẫn
chưa mang lại kết quả gì cụ thể[9].
- Trong cấu trúc và cơ chế nội bộ của đại học hiện đại, lòng tin của
Jaspers rằng: “Vì cùng nhau mưu cầu chân lý, nên những nhà nghiên cứu
sẽ không quan hệ với nhau theo kiểu cạnh tranh sinh tồn” phải chăng chỉ
là một giấc mơ đẹp, khi “publish or perish”, với sự chi phối mãnh liệt
của chức vụ, lương bổng và nguồn tài trợ, trở thành một “luật chơi” ngày
càng khắc nghiệt và không kém phần thô bạo? “Đại học không chỉ cho phép
mà còn đòi hỏi tiếp nhận những nhân vật bất đồng và mâu thuẫn với nhau
vào trong lòng mình” như khẳng định ở trên sẽ trả lời thế nào trước nạn
bè phái, “cánh hẩu” tràn lan và khó chối cãi trong đời sống đại học ngày
nay? Và, cái gì còn lại là “phẩm giá”, trong khi mọi cái (một bài báo,
một quyển sách, một bằng sáng chế…) đều có một “giá cả”?
- Sau cùng là về mối quan hệ luôn căng bức và tế nhị giữa khoa học
và chính trị, giữa đại học và nhà nước. Từ kinh nghiệm xương máu dưới
chế độ phát xít cực quyền, Jaspers kiên quyết đòi hỏi sự phi chính trị
của đại học: “Chính trị cũng như tính quốc gia, dân tộc - phải là đối
tượng của nghiên cứu, chứ không phải là mục tiêu và ý nghĩa của đời sống
đại học”, nếu không muốn “phản bội Ý niệm đại học”. Trong đại học “việc
gần gũi với thực tế là thông qua nhận thức, chứ không phải thông qua
hành động”. Hannah Arendt, nữ triết gia, bạn thân của Jaspers, đồng thời
là chiến sĩ chống phát xít và, cùng với Jaspers, là nhân chứng thời
đại, lại có cách nhìn khác. Trong thư ngày 9.7.1946, Arendt phê bình
thẳng thắn và chi ly “mấy điều thực tế”, trong tác phẩm này của Jaspers.
Theo bà, “không có sự an toàn phi chính trị trước chính trị”, và cũng
chính vì thế mà đại học “đã đánh mất phẩm giá của mình dưới chế độ cực
quyền từ 1933”. Theo Arendt, đại học ngày nay thậm chí “phải là một nhân
tố chính trị”, hiểu theo nghĩa là cứ điểm để bảo vệ tự do ngôn luận như
là nền tảng của quyền tự do phát biểu chân lý khoa học và, qua đó, của
quyền tự do giảng dạy (như sẽ được trịnh trọng ghi vào trong Điều 5 của
Hiến Pháp CHLB Đức sau đó ít lâu). Jaspers tán đồng trong thư ngày
19.10.1946 cho Arendt: “Những nhận xét phê bình của bà đối với quyển Ý niệm đại học của tôi đều đúng cả”!
Trong diễn văn nhân kỷ niệm 600 năm Đại học Heidelberg – nơi Jaspers đã
tích cực góp phần “tái tạo” từ 1945 -, Jürgen Habermas có những nhận
định khá nặng nề. Ông cho rằng “Ý niệm đại học”, với các tiền đề mang
tính phi-thời gian của Jaspers, là “kết quả mặc định của nền xã hội học
thuộc truyền thống duy tâm Đức”, và không phải không có lý khi chua chát
khẳng định rằng: đại học - như là tiểu hệ thống được chuyên môn hóa
theo kiểu chức năng của xã hội dân chủ hiện đại nay đã được dị biệt hóa
đến cao độ - không còn là chỗ “hiện thân của Ý niệm” nào nữa cả! Thậm
chí, những ai còn viện dẫn đến Jaspers thì “đều thuộc về những người đơn
thuần mang tinh thần phòng thủ của một nền phê phán văn hóa thù địch
với hiện đại hóa”[10]. Phải chăng Ý niệm (đại
học) – luôn có mặt và cần khôi phục như là một vận động tinh thần để
cải cách đại học theo quan niệm của Jaspers - chỉ là một “niềm tin duy
tâm”, thậm chí, một “huyền thoại” như bản thân mô hình đại học Humboldt,
là điều không thể bàn sâu ở đây. Đến với công trình tâm huyết này của
Jaspers, ta chỉ có thể trân trọng “lòng tin triết học” của ông rằng: đại
học hiểu như sự thống nhất của các ngành khoa học không chỉ là một Ý
niệm được phát triển từ triết học, dựa trên một tiến trình lịch sử đã qua (các khoa học riêng lẻ ngày càng dị biệt hóa, và đều bắt nguồn từ Một khoa học nguyên thủy v.v…), mà còn là một Ý niệm sẽ điều hướng diễn trình trong tương lai:
“Mọi khoa học đều thiết yếu gắn liền với nhau là một Ý niệm triết học.
Chỉ từ Ý niệm ấy mới phát sinh sự thống nhất của các khoa học như là một
sứ mệnh định hình nên cái toàn bộ của tri thức. Và đó cũng là chỗ bắt đầu sự tương tác của mọi khoa học hướng về một mục tiêu chung”.
Ý niệm, theo đúng nghĩa, không phải là “sáng kiến” chủ quan,
mà là kết quả của lao động trí tuệ, vì thế, không thể tìm thấy nó một
cách dễ dàng trong đời thường. Không một cơ quan, tổ chức hay xã hội nào
có thể trường tồn mà không tìm ra và bảo vệ những giá trị cốt lõi. Hiểu theo nghĩa ấy, biết đâu Ý niệm có khi mạnh hơn thực tại, vì nó định hình thực tại?[11]
BVNS
Tết Quang Trung, Quý Tỵ, 2013
Tết Quang Trung, Quý Tỵ, 2013
[1] Karl Jaspers (1883-1969) là một trong những triết gia quan
trọng nhất của thế kỷ 20. Tuy không chịu nhận danh hiệu, ông thường
được xem là triết gia hiện sinh “hữu thần”, trong khi Martin Heidegger
và J. P. Sartre… là hiện sinh “vô thần”. Xuất thân là bác sĩ y khoa, ông
đi từ tâm bệnh học sang tâm lý học và triết học, với nhiều suy tưởng
sâu sắc về ý nghĩa của đời người (qua các thuật ngữ nổi tiếng như: hoàn
cảnh ranh giới, thất bại, giao cảm, tự do, siêu việt, lòng tin triết
học…). Là nạn nhân của chủ nghĩa phát xít Đức, Jaspers đấu tranh cho nền
dân chủ và kêu gọi tái lập nền giáo dục hướng theo những giá trị, mà Ý niệm đại học
là tác phẩm tiêu biểu. Từ 1948, ông rời nước Đức, sang Basel (Thụy Sĩ)
giảng dạy cho đến khi mất vào năm 1969. Xem thêm: Karl Jaspers, Triết học nhập môn, bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, NXB Ca Dao, 1974, tái bản: NXB Thuận Hóa, Huế, 2004.
[2] Những trích dẫn, trừ khi có chú thích khác, đều từ “Ý niệm Đại học” (nguyên bản tiếng Đức).
[3] Không thể kể xiết những truy bức, tổn thất và thoái hóa mà nền đại học Đức thời quốc xã Đức phải gánh chịu khi bị bắt buộc phải phục vụ chế độ cực quyền chuyên chế. Chỉ riêng về số lượng: mất hơn 3000 học giả - tức một phần ba nhân sự -, vô số phải tị nạn ở nước ngoài, một cuộc di tản trí thức lớn nhất chưa từng có thời bấy giờ.
[4] Karl Jaspers, Die Schuldfrage / Câu hỏi về tội lỗi, Heidelberg 1946, tr. 64 và tiếp.
[5] Xem thêm: Hedwig Kopetz, Forschung und Lehre. Die Idee der Universität bei Humboldt, Jaspers, Schelsky und Mittelstraß / Nghiên cứu và giảng dạy. Ý niệm Đại học nơi Humboldt, Jaspers, Schelsky và Mittelstraß; Wien-Köln-Graz 2002, tr. 57 và tiếp.
[6] Immanuel Kant, Grundlegung zur Metaphysik der Sitten / Đặt cơ sở cho Siêu hình học về đức lý, Tác phẩm Kant, Ấn bản Hàn Lâm, Tập IV, Berlin 1968, tr. 434.
[7] Sđd, tr. 435.
[8] J. F. Lyotard, Hoàn cảnh hậu-hiện đại, Một báo cáo về tri thức, Ngân Xuyên dịch, NXB Tri thức, 2007.
[9] “Manifest Geisteswissenschaften”, Tuyên ngôn của năm giáo sư ngày 25.11.2005: http://www.bbaw.de/bbaw/Veranstaltungen/Veranstaltungsseite_ansehen.html?terminid=551
[10] Jürgen Habermas: Die Idee der Universität – Lernprozesse / Ý niệm đại học – những tiến trình học hỏi, trong: Die Idee der Universität – Versuch einer Standortbestimmung / Ý niệm đại học - Thử xác định chỗ đứng; nhiều tác giả, Berlin / Heidelberg 1988, tr. 140 và tiếp.
[11] Bùi Văn Nam Sơn, Platon và việc thực hiện ý tưởng, Trò chuyện triết học, NXB Tri thức 2012, tr. 36 và tiếp.
[2] Những trích dẫn, trừ khi có chú thích khác, đều từ “Ý niệm Đại học” (nguyên bản tiếng Đức).
[3] Không thể kể xiết những truy bức, tổn thất và thoái hóa mà nền đại học Đức thời quốc xã Đức phải gánh chịu khi bị bắt buộc phải phục vụ chế độ cực quyền chuyên chế. Chỉ riêng về số lượng: mất hơn 3000 học giả - tức một phần ba nhân sự -, vô số phải tị nạn ở nước ngoài, một cuộc di tản trí thức lớn nhất chưa từng có thời bấy giờ.
[4] Karl Jaspers, Die Schuldfrage / Câu hỏi về tội lỗi, Heidelberg 1946, tr. 64 và tiếp.
[5] Xem thêm: Hedwig Kopetz, Forschung und Lehre. Die Idee der Universität bei Humboldt, Jaspers, Schelsky und Mittelstraß / Nghiên cứu và giảng dạy. Ý niệm Đại học nơi Humboldt, Jaspers, Schelsky và Mittelstraß; Wien-Köln-Graz 2002, tr. 57 và tiếp.
[6] Immanuel Kant, Grundlegung zur Metaphysik der Sitten / Đặt cơ sở cho Siêu hình học về đức lý, Tác phẩm Kant, Ấn bản Hàn Lâm, Tập IV, Berlin 1968, tr. 434.
[7] Sđd, tr. 435.
[8] J. F. Lyotard, Hoàn cảnh hậu-hiện đại, Một báo cáo về tri thức, Ngân Xuyên dịch, NXB Tri thức, 2007.
[9] “Manifest Geisteswissenschaften”, Tuyên ngôn của năm giáo sư ngày 25.11.2005: http://www.bbaw.de/bbaw/Veranstaltungen/Veranstaltungsseite_ansehen.html?terminid=551
[10] Jürgen Habermas: Die Idee der Universität – Lernprozesse / Ý niệm đại học – những tiến trình học hỏi, trong: Die Idee der Universität – Versuch einer Standortbestimmung / Ý niệm đại học - Thử xác định chỗ đứng; nhiều tác giả, Berlin / Heidelberg 1988, tr. 140 và tiếp.
[11] Bùi Văn Nam Sơn, Platon và việc thực hiện ý tưởng, Trò chuyện triết học, NXB Tri thức 2012, tr. 36 và tiếp.
Nguon: http://www.sachhay.org/sach/ChiTiet/7015/y-niem-dai-hoc?BookShelfID=19
No comments:
Post a Comment