Saturday, November 21, 2015

Dạy sử tựa như giảng tín điều

  • Nguyễn Khánh Trung(Viện IRED)

 - Tuần này, sự kiện gây chú ý nhất của lĩnh vực giáo dục là những bất đồng giữa Bộ GD-ĐT và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam về việc dự kiến dạy tích hợp môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông.
Ở đây, tôi không bênh vực cho bên nào vì thấy rằng tích hợp hay không tích hợp không quan trọng cho bằng cách chúng ta tư duy về môn sử và cách giảng dạy môn học này trong trường phổ thông.
Cách quan niệm và cách giảng dạy “truyền thống” lâu nay rõ ràng là nguyên nhân của hiện tượng học sinh chán sử.
Nếu không thay đổi thì dù có tích hợp hay để độc lập, các học sinh vẫn tiếp tục chán, mà khi các em đã chán thì có ép buộc (ép học, ép thi), các em cũng chẳng thể yêu dân tộc, yêu tổ quốc hơn. Bởi lẽ một tình yêu thực sự và sâu sắc phải bắt nguồn từ sự tự nguyện, tự do đến với nhau vì một sự hấp dẫn nào đó từ đối phương hay đối tượng chứ không phải là kết quả của một sự cưỡng ép.
Tôi đã có dịp tìm hiểu và quan sát một số tiết sử trong một trường tiểu học tại Việt Nam thì thấy rằng việc giảng dạy môn này trong trường học ở ta đơn thuần chỉ là việc chuyển tải một chiều một khối lượng kiến thức mang tính chính trị xã hội được soạn sẵn trong sách giáo khoa cho học sinh, yêu cầu học sinh học thuộc những ý chính với những sự kiện, những ngày tháng, những con số, những ý nghĩa để đi thi, khá hơn nữa là làm cho các em tin tưởng, yêu mến những gì được học.Cách giảng dạy một chiều và áp đặt
Hình thức truyền thụ như vậy tựa như việc giảng dạy các “tín điều ” trong một tôn giáo chứ không phải là việc giảng dạy môn sử với tư cách là một khoa học.
Có khác chăng, các tín điều thì thuộc về tôn giáo, và việc chuyển tải chúng là nhằm nuôi dưỡng đức tin, phát triển đời sống tâm linh cho người học; còn việc giảng dạy môn sử một chiều như lâu nay thì hình như chẳng vì sự phát triển bất kỳ thứ gì nơi học sinh, mà chủ yếu là để phục vụ ý chí của người lớn.
Lẽ ra nhiệm vụ của việc giảng dạy môn sử là làm hình thành và phát triển nơi học sinh tư duy sử học, trang bị cho các em các tri thức, kỹ năng và các phương pháp sử học để các em có thể hiểu, đọc được các sự kiện lịch sử trong bối cảnh xã hội của chúng, thẩm định được các sử liệu, hiểu được các góc nhìn khác nhau về cùng một sự kiện lịch sử…
Tôi xin lấy một vài ví dụ về việc giảng dạy môn sử tại những nước phát triển để minh họa cho những điều nói trên.

Thursday, November 19, 2015

Dossier: Aimer au 21e siècle

Maud Navarre
Le couple contemporain est soumis à un étrange paradoxe : alors même qu’il n’a jamais semblé si fragile, il fait l’objet d’une idéalisation croissante. Ses repères traditionnels s’érodent ; les divorces (plus de 120 000 par an) et séparations atteignent un nombre historique, malmenant l’image du couple éternel. Pourtant l’envie d’y croire demeure. Et la vie à deux reste la première source de bonheur des Français, devant la famille, la santé ou les enfants.
Dans ce moment charnière, le couple se cherche et se réinvente. En témoigne la multiplication des modèles désormais légitimes sur le grand commerce de l’amour : mariés, pacsés ou en union libre ; homos ou hétéros, cohabitant ou non. Parallèlement, de nouvelles valeurs s’immiscent dans la relation de couple : le respect de la liberté individuelle, la complicité, l’égalité entre les sexes… De hautes attentes sexuelles s’y expriment aussi, que l’on réservait jadis à la sphère du fantasme… ou de l’infidélité.

Monday, November 16, 2015

GIÁO DỤC KHAI MINH (bai 17) - ROUSSEAU: GIÁO DỤC “TỰ NHIÊN” LÀ GÌ?



 Bùi Văn Nam Sơn

Con người, theo Rousseau, đi vào xã hội, nhưng đó phải là một xã hội được "hiệu chỉnh" sao cho phù hợp với những đức tính và năng lực tự nhiên của con người, chứ không phải để trở thành công cụ phục vụ.
Vì thế, ông hình dung hai hệ thống giáo dục khác nhau về hình thức do điều kiện xã hội không giống nhau, nhưng cùng chung mục đích. Hệ thống thứ nhất dành cho xã hội đã được tổ chức phù hợp với bản tính tự nhiên: nhỏ, gọn, dành cho những con người tự do, dạy cho trẻ em vui chơi trong tinh thần tập thể, huynh đệ và đoàn kết. Hệ thống thứ hai dành cho xã hội "văn minh và đồi trụy" hiện tồn. Trước khi cho đi vào xã hội, cần vun bồi tinh thần độc lập, lương thiện, và trui rèn cho trẻ em năng lực đề kháng trước ảnh hưởng xấu của xã hội. Cái trước gọi là hệ thống giáo dục chủ động, cái sau là hệ thống giáo dục phòng vệ. Trong thực tế, hai hệ thống kết hợp và bổ sung cho nhau, vì cùng chung một mục tiêu.

GIÁO DỤC KHAI MINH (BÀI 23) - GIÁO DỤC “TỰ NHIÊN”: ƯU VÀ KHUYẾT



Bùi Văn Nam Sơn

Cái gì hợp tự nhiên là tốt, trái tự nhiên là xấu! Ai dám cãi lại điều ấy, và, qua đó, phản đối triết thuyết giáo dục “tự nhiên”? 
“Tự nhiên” - có lẽ do ta chưa hiểu mấy về nó - luôn có “uy tín”, còn những gì xấu xa, đồi bại là do... con người, do xã hội, nghĩa là phản tự nhiên, Rousseau hùng hồn: “Tất cả đều tốt đẹp nơi tự nhiên. Tất cả đều hỏng bét do bàn tay con người!”. Thi hào Đức Friedrich Schiller cũng viết: “Thế giới là hoàn hảo, nơi đâu không có bóng dáng đau khổ của con người!”. Thật thế chăng?

Nhiều nghiên cứu cho thấy đời sống thú vật trong tự nhiên có thể rất tàn bạo, nhưng, theo viễn tượng tự nhiên luận, chỉ có đời sống con người là sa đọa và xa rời tự nhiên mà thôi. Chẳng hạn, theo Erich Fromm, trong Giải phẫu học về tính xâm hấn của con người, hành vi xâm hấn tất yếu cũng có trong đời sống thú vật, nhưng lại không có tính phá hoại, hủy diệt. Phá hoại, hủy diệt bằng “bạo lực vô nghĩa”, không vì nhu cầu sinh tồn chỉ có nơi con người! Cuộc tranh cãi sẽ bất tận, nếu ta lại hỏi: tại sao “bạo lực vô nghĩa” là phản tự nhiên? Con người, kỳ cùng, không phải là sản phẩm và bộ phận của “tự nhiên” hay sao?!

Từ sự đối lập giữa tự nhiên và văn hóa theo cách nhìn trên đây, triết thuyết giáo dục “tự nhiên” của Rousseau hình thành với các đặc điểm sau đây:
-     Tập trung vào bản tính tự nhiên của con người - hiểu như bộ phận của trật tự tự nhiên - và lấy đó làm mục tiêu và sự định hướng cho giáo dục;
-    Xem cảm xúc là chìa khóa để mở cánh cửa vào tự nhiên và, vì thế, là cơ sở cho sự hiểu biết của ta về thực tại;
-     Mọi diễn trình tự nhiên đều tiệm tiến và chậm chạp theo từng giai đoạn phát triển, do đó giáo dục cũng cần hướng theo mô hình ấy, nếu muốn đạt hiệu quả vững bền;
-     Từ đó, ca ngợi những giá trị có liên quan: tự do, tự khởi, độc đáo và đơn giản;
-     Nếu tự nhiên là tốt, thì bản tính con người, ít ra từ khi mới sinh ra, cũng tốt, do đó, bác bỏ những quan niệm bi quan về con người;
-     Và sau cùng, trong thực hành giáo dục, xem trọng những trải nghiệm sống thực với thiên nhiên (theo nghĩa rộng) hơn là kiến thức từ chương, năng lực ngôn ngữ và cảm thức về cái siêu nhiên.

The skills Americans say kids need to succeed in life



What are the best skills for kids to have these days?
In today’s technology-driven world, is it best for children to hone their science and math skills to catch up with other countries that outperform the U.S.? Or is it best for them to be more well-rounded, with strong arts and athletic skills as well? Or perhaps parents should instead focus on encouraging less tangible skills in their kids, such as teamwork, logic and basic communication skills.
What Skills Kids Need to Succeed


Wednesday, November 11, 2015

5 chủ thể chính trong cải cách giáo dục của Phần Lan

Quỳnh Trung lược trích

TT - Mục tiêu cải cách toàn diện giáo dục Việt Nam (giáo dục bắt buộc 9 năm, đẩy mạnh phân luồng sau THCS) có nhiều tương đồng với mô hình giáo dục của Phần Lan, một trong số các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới.
Hiện nay Phần Lan đang chuẩn bị cải cách chương trình khung quốc gia về giáo dục, và chương trình mới sẽ được áp dụng từ năm 2016.
Tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) đã dành nhiều thời gian nghiên cứu sâu về vấn đề trên. Được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi xin phép trích những ý chính trong mục cải cách chương trình khung quốc gia về giáo dục Phần Lan, trong quyển sách Giáo dục Việt Nam và Phần Lan xuất bản năm 2015 của ông.
Phụ huynh, học sinh cũng tham gia hiến kế
Theo TS Nguyễn Khánh Trung, có năm chủ thể chính đóng góp cho chương trình khung giáo dục quốc gia của Phần Lan bao gồm nhà nước, hiệu trưởng, giáo viên, học sinh và phụ huynh. Trong đó, Nhà nước Phần Lan gồm Quốc hội, Chính phủ, Bộ Giáo dục và văn hóa, Hội đồng Giáo dục quốc gia biên soạn chương trình khung quốc gia, xét duyệt và cấp phép cho các bộ sách giáo khoa.

Wednesday, November 4, 2015

"Khi chúng ta lạc đường, càng tiến tới, chúng ta càng rời xa đích đến" (Seneque - La vie heureuse).

Dương Phi Anh

Đây là câu mở đầu trong phần "Dẫn nhập" của cuốn "Giáo dục Việt Nam và Phần Lan" của TS Nguyễn Khánh Trung vừa được NXB Khoa học Xã hội phối hợp với DT Book ấn hành. Sách thuộc "Tủ sách phát triển giáo dục" do Viện nghiên cứu giáo dục IRED tuyển chọn và giới thiệu.
Cuốn "Giáo dục Việt Nam và Phần Lan" là một công trình nghiên cứu khoa học công phu, dày 350 trang, được trình bày theo chuẩn sách khoa học với đầy đủ các mục trình bày về đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cả các chi tiết nhỏ như chỉ dẫn về viết tắt, các bảng biểu, các chỉ dẫn về thuật ngữ, tên họ (Index).
Chúng tôi đánh giá tác giả thông minh khi chọn phương pháp chính cho công trình này là phương pháp SO SÁNH. So sánh một trường tiểu họ của Phần Lan với một trường tiểu học của Việt Nam ở mọi mặt...Theo tác giả: "Nghiên cứu so sánh trong giáo dục ngày nay phát triển một cách mạnh mẽ thu hút các nhà nghiên cứu cũng như các nhà lãnh đạo trên thế giới, điều đó hoàn toàn không ngẫu nhiên...".
Tác giả cho biết, chọn Phần Lan vì giáo dục phổ thông Phần Lan những năm qua luôn xếp đầu bảng của thế giới. Phần Lan có những điểm tương đồng với VN như cũng bị đô hộ dài hàng trăm năm (bị Thụy Điển cai trị hơn 7 thế kỷ), sau lại rơi vào tay Nga Hoàng hơn 100 năm, lại phải trải qua hai cuộc chiến tàn khốc, thua trận nên phải bồi thường chiến tranh cho đến mãi 1952 mới trả hết nợ. Phần Lan là đất nước có khí hậu khắc nghiệt (luôn trên 40 độ âm) và không hề có tài nguyên khoáng sản, "rừng vàng, biển bạc" như của VN, vậy mà chỉ sau 20 năm ngày độc lập, Phần Lan có thu nhập trên đầu người dân vượt xa nhiều nước phát triển như Anh, công nghiệp nằm trong top 10 nước phát triển nhất thế giới. Đặc biệt là giáo dục thì luôn đứng trong nhóm ba nước đứng đầu.
"Đặt mình bên cạnh quốc gia này, đối diện với sự tụt hậu nói chung và sự non kém về giáo dục của VN nói riêng, chúng ta không thể tiếp tục đổ lỗi cho chiến tranh mặc dù các cuộc chiến đã gây khó khăn rất lớn cho chúng ta. Chúng ta cũng không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh khó khăn do thiên tai, địch họa, vì Phần Lan đã và đang có hoàn cảnh thiên nhiên khó khăn, khắc nghiệt hơn chúng ta rất nhiều... Người Phần Lan đã làm gì để thành công và đặc biệt thành công trong giáo dục như thế?". Tác giả Nguyễn Khánh Trung viết.

Qua sáu chương sách từ khảo sát, phân tích, chứng minh xoay quanh năm chủ thể nghiên cứu (actor) then chốt của hệ thống giáo dục (gồm: nhà nước, nhà trường, nhà giáo, gia đình, người học), tác giả đưa ra kết luận:

Với giáo dục Việt Nam: "Nhà nước là chủ thể chỉ đạo toàn bộ mọi khía cạnh, hoạch định mục tiêu ở tầm vĩ mô cho hệ thống giáo dục phổ thông, trong đó giáo dục tiểu học là chặng đầu, đem ra các mục tiêu, kế hoạch hàng năm với từng phong trào, từng chủ trương cụ thể, quy định về mục tiêu của từng môn học, từng bài học thông qua chương trình khung, sách giáo khoa, sách giáo viên; Nhà nước cũng quán xuyến mọi khâu trong việc xây dựng nội dung chương trình giáo dục từ việc ban hành chương trình khung, tổ chức biên soạn và xuất bản bộ sách giáo khoa duy nhất sử dụng trong toàn hệ thống, các loại sách tham khảo cho giáo viên, học sinh; Nhà nước cũng là actor (chủ thể) quy định hình thức tổ chức giảng dạy, các phương pháp sư phạm, cách thức, các tiêu chí về thi cử, kiểm tra đánh giá học sinh qua các hướng dẫn giáo viên, chuẩn kiến thức, kỹ năng, các tài liệu hướng dẫn khác... Nhà nước ra các văn bản hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho các cấp quản lý bên dưới...triển khai thực hiện trong từng bài học chi tiết.
Những điều như vậy khác xa với cách làm của nhà nước Phần Lan, nơi chỉ đưa ra tầm nhìn, cách tiếp cận, mục tiêu giáo dục quốc gia về giáo dục cơ bản, ban hành chương trình khung, trong đó chỉ vạch ra những nét cốt lõi về mục tiêu, nội dung giảng dạy, cách đánh giá học sinh. Phần còn lại được phân cho cấp quản lý địa phương mà thực chất là cho các hiệu trường và giáo viên trong nhà trường...
... Hình ảnh nền giáo dục VN nói chung và hình ảnh của Hiệu trưởng, của giáo viên tại VN hiện tại nói riêng chỉ làm công việc tái tạo lại "văn hóa", những gì có sẵn về mặt tri thức, kỹ năng (những gì có sẵn trong chương trình khung và sách giáo khoa, sách giáo viên được trình bày một cách chi tiết) và các giá trị đạo đức cũng được quy định sẵn trong các Điều lệ trường học. Mọi thứ đã được hệ thống hóa trong lộ trình giáo dục phổ thông với một mục tiêu tổng quát là đào tạo "con người VN XHCN", một mô hình đã định nghĩa sẵn theo các giá trị và tư tưởng của các nhà cầm quyền, mà các actor trong trường không có quyền đi ra ngoài trong khi thực hiện giảng dạy. Nhiệm vụ của thầy cô giáo là chu toàn những gì được giao theo kế hoạch. Mọi người có thể gây dấu ấn riêng, tạo uy tín để tiến thân trên đường sự nghiệp trong những chiến lược cá nhân hoặc tập thể thông qua con đường "thi đua, khen thưởng"...
Tại Phần Lan, khi nhà nước chỉ đóng vai trò hướng dẫn dựa trên những điều cốt lõi tổng quát, các actor trong trường học có rất nhiều quyền và tự do. Các trường học tại các vùng khác nhau có thể khác nhau về chương trình giáo dục cụ thể, về sách giáo khoa, về cách chức tổ chức sư phạm và nhân sự vỉ Hiệu trưởng được giao quyền tựa như một chủ doanh nghiệp, có quyền tuyển và sắp xếp người của mình, có quyền tuyển sách giáo khoa để dạy, có quyền quyết định một số môn tự chọn...".

Sự khác biệt đáng suy ngẫm

Hoài Nam

Dân trí: Giáo viên mình có thể phát biểu một đằng nhưng nghĩ một nẻo. Còn ở Phần Lan, có sự đồng nhất rất cao giữa văn bản, kế hoạch và hành động, họ không "sống hai mặt".

Trong quá trình thực hiện dự án “So sánh điển hình về vai trò các chủ thể tại hai trường tiểu học công lập của hai nước Việt Nam và Phần Lan”, TS Nguyễn Khánh Trung (Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục IRED) nhận thấy nhiều sự khác biệt. Điều này được ông chia sẻ tại buổi toạ đàm giới thiệu dự án vừa diễn ra tại TPHCM.

Người phát ngôn của sách giáo khoa?


 Ngân Hà

Cuốn sách Giáo dục Việt Nam và Phần Lan mới xuất bản tháng 5.2015 là nghiên cứu so sánh điển hình về vai trò các chủ thể tại hai trường tiểu học công lập của hai nước của tiến sĩ Nguyễn Khánh Trung. Nó nhận được sự quan tâm của bạn đọc, vì giáo dục hiện nay là vấn đề nóng bỏng. Và như G.J Danton nói: “Sau lương thực, giáo dục là nhu cầu thiết yếu nhất của một dân tộc”.
Ông nói: “Phần Lan quan niệm rằng đất nước của họ không nhiều tài nguyên, khí hậu tương đối khắc nghiệt, quanh năm tuyết rơi. Vì vậy, họ ý thức giáo dục (GD) là thiết chế tạo ra nguồn nhân lực tốt nhất, và với họ, nhân lực quyết định tất cả”.
Ông Trung cho rằng, gần đây mô hình GD Phần Lan nổi tiếng thế giới, vì sự thành công trong GD của họ cũng khiến cho các mô hình khác phải đặt lại vấn đề để thay đổi. Và phương pháp nghiên cứu của ông là so sánh giữa GD Việt Nam và Phần Lan ở cấp tiểu học, để tìm thấy mối tương quan cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của GD hai nước.